Web Content Viewer
Vai trò của lực lượng vũ trang trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và vấn đề xây dựng Quân đội hiện đại hiện nay
(Bqp.vn) - Tháng 8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa đập tan ách thống trị của thực dân, phát-xít và phong kiến tay sai, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong thắng lợi vĩ đại đó, lực lượng vũ trang cách mạng tuy còn non trẻ nhưng đã có vai trò to lớn, làm nòng cốt, dẫn dắt, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền. Bài học lịch sử đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng, chiến đấu của Quân đội nói chung, xây dựng Quân đội hiện đại nói riêng.
Đại tướng Phan Văn Giang trao quà, động viên lực lượng tham gia tổng hợp luyện diễu binh, diễu hành Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, tháng 8/2025.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang cách mạng, ngay từ khi mới thành lập, trong Chính cương vắn tắt (2/1930) và Luận cương chính trị của Đảng (10/1930) đã chỉ rõ tính tất yếu phải tổ chức ra quân đội công nông, làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng, tiến hành cách mạng bạo lực giành chính quyền. Thực hiện chủ trương đó, các tổ chức vũ trang do Đảng lãnh đạo được ra đời, như: Tự vệ đỏ (1930 - 1931), Du kích Bắc Sơn, Du kích Nam Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941). Đặc biệt, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập, đánh dấu sự ra đời đội quân chủ lực đầu tiên của Đảng, khẳng định bước phát triển vượt bậc của lực lượng vũ trang cách mạng. Từ đó, lực lượng vũ trang ngày càng có vai trò quan trọng trong tiến hành chiến tranh du kích, xây dựng căn cứ địa, gây thanh thế cho cách mạng, góp phần phát triển cơ sở chính trị trong quần chúng.
Trước yêu cầu cách mạng, Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (3/1945) xác định công việc cần kíp là “Tổ chức thêm nhiều bộ đội du kích và tiểu tổ du kích… thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam cứu quốc quân” [1]. Tháng 4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ nêu rõ: “Cần phải thống nhất, củng cố và phát triển các bộ đội quân giải phóng” [2]; trong đó, “Phải tổ chức ngay những đội tự vệ thường, tự vệ chiến đấu và bộ đội địa phương” [3] và xác định “Tổ chức các đội tự vệ, tự vệ chiến đấu, bộ đội địa phương là hình thức tổ chức mấu chốt trong lúc này” [4]. Ngày 15/5/1945 đánh dấu bước phát triển mới của lực lượng vũ trang cách mạng khi Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân và các tổ chức lực lượng vũ trang khác của Đảng Cộng sản Đông Dương được hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân. Ở các địa phương, nhiều đơn vị Giải phóng quân mới được thành lập; nơi nào có tổ chức Cứu quốc là ở đấy có các đội tự vệ, du kích, v.v. Tính đến thời điểm trước Tổng khởi nghĩa, Đảng ta đã xây dựng được lực lượng vũ trang khá mạnh và rộng rãi. Đó là lực lượng tự vệ đông đảo ở các làng, xã, đường phố; các đội du kích ở các chiến khu và căn cứ vũ trang; các đại đội, trung đội Giải phóng quân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương ở các tỉnh, huyện khu giải phóng.
Đầu tháng 8/1945, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có nhiều biến chuyển mau lẹ, mở ra thời cơ “ngàn năm có một” cho cách mạng Việt Nam. Nhất quán tư tưởng “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” [5], ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1, phát động quân và dân Việt Nam vùng lên giành lấy quyền độc lập của nước nhà; ngày 14/8/1945, Tổng bộ Việt Minh hiệu triệu quốc dân đồng bào và các đoàn thể cứu quốc, cùng quân Giải phóng Việt Nam vùng dậy giành lại quyền độc lập, đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho Nhân dân; trong 02 ngày (14 và 15/8/1945), tại Tân Trào (Tuyên Quang), Hội nghị toàn quốc của Đảng họp quyết định Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc. Dưới sự chỉ đạo của Tổng bộ Việt Minh, sự chỉ huy của Ủy ban Khởi nghĩa Trung ương và địa phương, các đơn vị Giải phóng quân, du kích, tự vệ chiến đấu ở các chiến khu, căn cứ vũ trang nhanh chóng tỏa đi các hướng phối hợp với Nhân dân giành chính quyền ở các địa phương. Điển hình là, từ căn cứ Tân Trào, một đơn vị vũ trang chủ lực tiến về Thái Nguyên đánh địch, phối hợp với Nhân dân lập chính quyền cách mạng và tiến thẳng về Hà Nội. Ở Lạng Sơn, đơn vị Giải phóng quân cùng Nhân dân đánh đồn Đồng Mỏ, buộc quân Nhật phải xin hàng. Các đơn vị Giải phóng quân Cao Bằng tiến đánh thị xã Cao Bằng và Hà Giang. Tại Quảng Ngãi, từ Chiến khu Vinh Sơn, Chiến khu Núi Lớn, Đại đội du kích Phan Đình Phùng và Hoàng Hoa Thám chia các cánh tỏa đi đánh chiếm các đồn và giải phóng các huyện lỵ, sau đó cùng tiến về chiếm tỉnh lỵ. Cũng trong thời gian này, dưới sự lãnh đạo của các cấp đảng bộ và ủy ban Khởi nghĩa, lực lượng vũ trang ở các địa phương khác trong cả nước đã cùng với lực lượng chính trị to lớn của quần chúng nhất tề nổi dậy giành chính quyền về tay Nhân dân. Tiêu biểu trong đó là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội (19/8/1945), Huế (23/8/1945), Sài Gòn (25/8/1945),v.v. Chỉ với quân số chưa đến 5.000 Giải phóng quân [6] và khoảng vài vạn tự vệ, trang bị vũ khí thô sơ, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang cách mạng đã khẳng định vai trò nòng cốt, tiên phong, xung kích dẫn dắt và làm chỗ dựa vững chắc hỗ trợ đắc lực cho quần chúng nổi dậy, góp phần quan trọng, trực tiếp giành chính quyền về tay Nhân dân trên cả nước.
Thực tế cho thấy, trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, mặc dù lúc đó quân Nhật và tay sai đã hoang mang, dao động cực độ nhưng nếu không có các đơn vị vũ trang trấn áp thì việc giành chính quyền không thể diễn ra nhanh chóng và hạn chế đổ máu. Đúng như sau này Đảng ta khẳng định: “Nếu Đảng ta trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị và khi điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành được thắng lợi” [7].
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, lực lượng vũ trang cách mạng tiếp tục khẳng định rõ vai trò nòng cốt bảo vệ thành quả cuộc Tổng khởi nghĩa và chính quyền cách mạng non trẻ trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” trước âm mưu, hành động chống phá của thù trong, giặc ngoài. Không chỉ vậy, vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân tiếp tục được kế thừa, phát triển, thể hiện rõ trong 30 năm chiến tranh cách mạng, làm nòng cốt cùng toàn dân trường kỳ kháng chiến, đánh bại quân đội xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, lập nên những chiến công vang dội “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bước sang một giai đoạn phát triển mới, với nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều trở ngại, thách thức mới. Các nước lớn và các trung tâm quyền lực tiếp tục điều chỉnh chiến lược, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, thỏa hiệp, song cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn. Xung đột, chiến tranh diễn ra ở nhiều khu vực, nguy hiểm hơn, không loại trừ nguy cơ chiến tranh lan rộng. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, trong đó có Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, tiểm ẩn nguy cơ xảy ra xung đột. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ và tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực, trong đó có quốc phòng, an ninh, với nhiều thách thức mới đặt ra. Ở trong nước, sau gần 40 năm đổi mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước được nâng lên, là nền tảng quan trọng để đất nước vươn mình trong kỳ nguyên phát triển mới. Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cùng với những quyết sách chiến lược: Đổi mới, xây dựng và chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế tư nhân;; hội nhập quốc tế,... đang tạo ra cơ hội lịch sử, bước ngoặt cho sự phát triển đột phá của đất nước trong kỳ nguyên mới. Tuy nhiên, đất nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, có mặt gay gắt, nặng nề hơn. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động trong và ngoài nước tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Các thách thức an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, sự cố môi trường diễn biến hết sức phức tạp. Quân đội được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư về mọi mặt, được các tầng lớp Nhân dân tin tưởng, yêu mến; tuy nhiên yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra cả thời cơ và thách thức.
Trước bối cảnh đó, việc đẩy mạnh nghiên cứu, vận dụng những bài học kinh nghiệm về xây dựng và phát huy vai trò to lớn của lực lượng vũ trang trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới, là vấn đề rất quan trọng.
Trước hết, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, tạo nền tảng chính trị vững chắc để xây dựng Quân đội hiện đại. Thực tiễn đã khẳng định, nếu không có lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng làm nòng cốt, chỗ dựa vững chắc hỗ trợ quần chúng đấu tranh thì Tổng khởi nghĩa Tháng Tám rất khó giành được thắng lợi mau chóng. Từ bài học kinh nghiệm đó, để xây dựng Quân đội hiện đại hiện nay, trước hết phải kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội và toàn quân cần tiếp tục quán triệt và chấp hành nghiêm nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chỉ đạo của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; gắn xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”’; xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ. Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, tổ chức, chính sách, dân vận và bảo vệ chính trị nội bộ; đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, đảm bảo cho Quân đội luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Tích cực, chủ động đấu tranh làm thất bại mưu đồ của các thế lực thù địch xuyên tạc quan điểm, mục tiêu, tiến trình hiện đại hóa Quân đội và âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng,... Trước mắt, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức thành công đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII thực sự mẫu mực tiêu biểu; tham gia có trách nhiệm, chất lượng vào các nội dung phục vụ Đại hội XIV của Đảng. Triển khai chặt chẽ quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tổ chức đảng, tổ chức cơ quan chính trị trong Quân đội; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sĩ quan; Đề án “Chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài trong Quân đội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Tiếp tục rà soát, kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy, quản lý gắn với nhân sự đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, nhân sự tham gia Ban Chấp hành Trung ương khóa XIV, đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”; đưa hoạt động “đền ơn, đáp nghĩa” đi vào chiều sâu, thực chất,…góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Quân đội với Nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng Quân đội hiện đại.
Hai là, tiếp tục kiện toàn tổ chức lực lượng tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc để xây dựng Quân đội hiện đại. Kế thừa kinh nghiệm quý về xây dựng lực lượng vũ trang cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và kết quả thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 02/4/2022 của Quân ủy Trung ương về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; bảo đảm tổ chức Quân đội có cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần lực lượng, phù hợp với chủ trương, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự Việt Nam và quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo đảm chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, triển khai thực hiện tốt Kết luận số 159-KL/TW ngày 29/5/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Đề án tiếp tục sắp xếp tổ chức quân sự địa phương “tinh, gọn, mạnh” đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, phù hợp với tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, bảo đảm hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Cùng với đó, khẩn trương rà soát, sủa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; xây dựng và ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối liên hệ công tác; trong đó, đặc biệt chú trọng đối với các cơ quan, đơn vị thuộc diện sáp nhập, thành lập mới. Đẩy mạnh hoàn thiện xây dựng biểu tổ chức biên chế thời bình và thời chiến; kế hoạch động viên lực lượng và tổ chức một số đơn vị dự bị chiến lược sẵn sàng chiến đấu cao; hoàn thành việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch tác chiến phòng thủ, kế hoạch chiến đấu, đảm bảo thống nhất, phù hợp với quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến trong tình hình mới. Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước xây dựng, phát triển một số đơn vị, lực lượng mới; đầu tư xây dựng, triển khai các chiến lược, chương trình, đề án bảo đảm vũ khí, trang bị hiện đại cho Quân đội, nhằm tạo bước chuyển đột phá về trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của Quân đội, đảm bảo đủ sức răn đe, ngăn ngừa và sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.
Ba là, đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng chính quy,rèn luyện kỷ luật. Để không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh đột phá đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo, coi đây là nhiệm vụ then chốt để “hiện đại hóa” con người - nhân tố quyết định hiện đại hóa Quân đội. Theo đó, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới. Quá trình triển khai, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra các chủ trương, giải pháp mới, hiệu quả trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phù hợp với sự phát triển đường lối quốc phòng, quân sự và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện tốt phương châm huấn luyện “Cơ bản - Thiết thực - Vững chắc”. Tổ chức huấn luyện toàn diện, nhưng chuyên sâu, có trọng tâm, trọng điểm; lấy điều kiện và môi trường huấn luyện chiến đấu trong chiến tranh hiện đại để rèn luyện bộ đội; lấy nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chế độ, tính mạng, tài sản của Nhân dân làm mục tiêu cao nhất để giáo dục, huấn luyện bộ đội. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp huấn luyện, diễn tập theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, sát thực tế chiến đấu, địa bàn hoạt động, đối tượng tác chiến, tổ chức biên chế, trang bị và sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Tăng cường huấn luyện, diễn tập theo nhiệm vụ, tình huống tác chiến trên các môi trường; đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, công nghệ mô phỏng trong huấn luyện, đào tạo. Đặc biệt, tập trung huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị hiện đại, công nghệ cao; nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, tác chiến phòng thủ quân khu, làm cơ sở nâng cao trình độ, khả năng tác chiến của Quân đội. Quán triệt, thực hiện có hiệu quả phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”. Coi trọng thực hành, thực tập tại đơn vị cơ sở; thực hiện có hiệu quả các đề án về giáo dục, đào tạo. Cùng với đó, toàn quân đẩy mạnh xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, xây dựng nhà trường Quân đội theo mô hình Nhà trường thông minh, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; duy trì chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội; thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chính xác tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước có đối sách đúng đắn, phù hợp trong giải quyết các vấn đề nhạy cảm, phức tạp, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, kiên quyết không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược.
Bốn là, đột phá nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ quân sự, chuyển đổi số, xây dựng công nghiệp quốc phòng tự chủ, hiện đại. Toàn quân thống nhất về nhận thức: phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là mũi nhọn tiên phong góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Trên cơ sở đó, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII, Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ, Nghị quyết số 3488-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương và Kế hoạch số 536/KH-BQP của Bộ Quốc phòng về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội. Toàn quân gương mẫu, đi đầu trong đẩy mạnh thực hiện phong trào “Bình dân học vụ số” để phổ cập, nâng cao kiến thức về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, kỹ năng số, công nghệ số cơ bản cho cán bộ, chiến sĩ, hướng tới xây dựng “quân nhân số”. Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Đề án Chuyển đổi số trong Bộ Quốc phòng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng số, nhân lực số, dữ liệu số, công nghệ chiến lược và an toàn, an ninh mạng; gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa công tác cải cách hành chính quân sự với chuyển đổi số, tập trung tháo gỡ, giải quyết các vướng mắc về hạ tầng công nghệ, bảo mật, đường truyền dữ liệu,... tạo bước đột phá trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị và toàn quân. Các học viện, nhà trường, trung tâm, viện nghiên cứu trong Quân đội bám sát định hướng của Đảng và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, tập trung nguồn lực nghiên cứu, phát triển hệ thống vũ khí công nghệ cao và chuyển đổi số; ứng dụng trí tuệ nhân tạo phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Cùng với đó, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; có năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là một số loại vũ khí chiến lược, tạo nền tảng vững chắc cho xây dựng Quân đội hiện đại.
Năm là, Chú trọng tổng kết thực tiến, nghiên cứu, phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghệ thuật quân sự Việt Nam là bộ phận đặc biệt quan trọng của khoa học quân sự Việt Nam; kết tinh kinh nghiệm lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Hiện nay, trước những biến động phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhất là sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ quân sự đã và đang làm xuất hiện các hình thái, phương thức, thủ đoạn chiến tranh mới, hiện đại, đặt ra những thách thức, yêu cầu cấp thiết phải phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, nhất là thực tiễn các cuộc xung đột, chiến tranh trên thế giới trong thời gian gần đây nhằm phát triển đường lối, nghệ thuật quân sự Việt Nam, phù hợp với sự phát triển khoa học quân sự, vũ khí, trang bị và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới. Chú trọngphát triển nghệ thuật chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; lý luận xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân”; lý luận tác chiến chiến tranh nhân dân, nhất là các loại hình tác chiến chống xâm lấn bảo vệ biên giới, bảo vệ biển, đảo, tác chiến phòng thủ chiến lược; tác chiến không gian mạng; nghệ thuật tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng,... trong điều kiện chiến tranh hiện đại. Đặc biệt, cần tập trung nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước đối với công tác quốc phòng, quân sự trong tình hình mới, trọng tâm là cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo điều hành xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, phù hợp với cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy và vận hành chính quyền địa phương hai cấp.
Cùng với đó, toàn quân tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, tạo thế và lực xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Trọng tâm là quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị khóa XIII về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Kết luận số 53-KL/TW ngày 28/4/2023 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng cả trên bình diện song phương và đa phương, đưa quan hệ quốc phòng với các nước đi vào chiều sâu, bền vững. Chú trọng hợp tác, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển công nghiệp quốc phòng, chuyển giao công nghệ sản xuất, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại, góp phần củng cố niềm tin, tăng cường hiểu biết, ngăn chặn, đẩy lùi thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín của Quân đội và đất nước trên trường quốc tế.
Tám mươi năm nhìn lại, chúng ta càng thấy rõ hơn thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, thấy rõ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, sức mạnh quật khởi của dân tộc và vai trò to lớn của lực lượng vũ trang cách mạng trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Thời gian đã lùi xa, nhưng hào khí sục sôi của Cách mạng Tháng Tám vẫn mãi cháy rực trong mạch nguồn cách mạng, tiếp tục “truyền lửa” để Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy, khẳng định vai trò nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, cùng toàn Đảng, toàn dân đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc, vì hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vũng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
[1] - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 371.
[2 ] - Sđd, tr. 392
[3]- Sđd,tr. 393.
[4]- Sđd,tr. 395
[5] - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 15, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 391.
[6] - Bộ Quốc phòng-Ban Tuyên giáo Trung ương-Bộ Công an-tỉnh Cao Bằng - Quân đội nhân dân Việt Nam truyền thống hào hùng, sự nghiệp vẻ vang, lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Nxb QĐND, H. 2024, tr. 35.
[7] - ĐCSVN -Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 21, Nxb CTQG, H.2002, tr.631.
File đính kèm:
Nội dung cùng chuyên mục
- Ra mắt Báo Quân đội nhân dân điện tử tiếng Nga
- Hội nghị kiểm tra Dự án rà phá bom mìn, vật nổ phục vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ địa bàn tỉnh Tuyên Quang
- Bộ Quốc Phòng gặp mặt Đoàn đại biểu người có công với cách mạng tỉnh Đồng Tháp
- Đại tướng Phan Văn Giang gửi thư chúc mừng 80 năm Ngày truyền thống Lữ đoàn Pháo binh 45
- Đại tướng Phan Văn Giang gửi thư chúc mừng 80 năm Ngày truyền thống Lực lượng vũ trang tỉnh Long An (nay thuộc Tây Ninh)