Nghệ thuật sử dụng pháo binh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ

14:01 | 31/03/2014

(Bqp.vn) - Cách đây tròn 60 năm (5/1954 - 5/2014), lực lượng pháo binh non trẻ của quân đội ta đã lập được thành tích vẻ vang trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá: “Pháo binh ta tuy nhỏ nhưng đã có một tác dụng lớn trong chiến dịch Điện Biên Phủ”. Có được kỳ tích đó chính là ta đã vận dụng sáng tạo, tài tình nghệ thuật pháo binh trong chiến dịch.

Lực lượng pháo binh tham gia chiến dịch với tổng số pháo, cối (kể cả pháo, cối của các đại đoàn bộ binh) gồm: 1 trung đoàn lựu pháo 105 mm có 2 tiểu đoàn với 24 khẩu; 1 trung đoàn sơn pháo, cối gồm 5 tiểu đoàn và 10 đại đội 94 khẩu (trong đó có 16 khẩu cối 120 mm, 30 khẩu sơn pháo 75 mm và ĐKZ, 12 dàn pháo phản lực 102 mm, 36 khẩu cối 82 mm); súng cối của các đại đoàn bộ binh là 140 khẩu. Tổng cộng ta có 261 khẩu pháo, cối các loại (trong đó có 3 khẩu cối 120 mm đoạt được của địch ở đồi Độc Lập). Về so sánh số lượng pháo giữa ta - địch là 261 - 126 khẩu (tỷ lệ là 2,1 - 1).

Lực lượng pháo binh được Bộ Chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ: chi viện trực tiếp cho bộ binh chiến đấu, tiến công các trung tâm đề kháng, cụm cứ điểm, cứ điểm, đánh địch phản kích, xây dựng trận địa tiến công và bao vây, củng cố nơi đã chiếm được; chế áp và tiêu diệt pháo binh địch, tham gia khống chế sân bay, bắn quấy rối, phá hoại sở chỉ huy, kho tàng… Từ ngày 13 - 17/3, nhiệm vụ của lực lượng pháo binh là tiến công tiêu diệt căn cứ Him Lam, trận đánh lớn then chốt mở đầu chiến dịch và toàn bộ phân khu phía Bắc của địch. Đúng 17 giờ ngày 13/3/1954, chiến dịch chính thức bắt đầu. Theo kế hoạch, 6 đại đội lựu pháo, 2 đại đội sơn pháo 75 mm và 3 đại đội cối 120 mm tập kích bất ngờ, mãnh liệt vào tất cả các trận địa pháo binh địch ở trung tâm Mường Thanh và Hồng Cúm, làm cho địch bị bất ngờ, hoang mang, một số bị thương, trong đó có tên quan năm chỉ huy phân khu trung tâm. Đợt tập kích hoả lực này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sơn pháo 75 mm, các loại cối chiếm lĩnh trận địa được an toàn và tiến hành bắn phá hoại tiêu diệt được nhiều hoả điểm địch, bộ binh triển khai chiếm lĩnh trận địa xuất phát xung phong được thuận lợi và nhanh chóng theo kế hoạch đề ra.

Sau đợt hoả lực đầu tiên, một số đơn vị lựu pháo và sơn pháo 75 chuyển sang bắn máy bay địch ở sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm và đã tiêu diệt được 5 máy bay của địch. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đợt 1, để chuẩn bị cho đợt 2 của chiến dịch, pháo binh ta tiến hành điều chỉnh đội hình bố trí và thành lập một số đơn vị mới; đưa 1 số đại đội lựu pháo vào áp sát khu trung tâm Mường Thanh để có thể tiến công, tiêu diệt hiệu quả mục tiêu. Cụ thể là di chuyển đại đội lựu pháo 804 lên Bắc trung tâm đề kháng Him Lam và cơ động 2 đại đội lựu pháo 802 và 803 lên Bắc trung tâm đề kháng Bản Kéo; chuyển một số đơn vị sơn pháo 75 mm, cối 120 mm và cối 82 mm vừa tham gia tiến công trung tâm đề kháng Độc Lập sang phối thuộc cho các đơn vị tiến công dãy đồi phía Đông; thành lập đại đội cối 120 mm, trang bị 3 khẩu vừa đoạt được của địch ở trung tâm đề kháng Độc Lập tham gia đợt 2 của chiến dịch.

Đúng 17 giờ ngày 30/3/1954, pháo binh ta bắt đầu hoả lực chuẩn bị, bảo đảm cho các đơn vị bộ binh cùng tiến đánh các căn cứ điểm A, C, D, E mở đầu đợt 2 của chiến dịch. Ngay từ đầu, ta đã tập trung hoả lực của 3 đại đội lựu pháo tiến hành tập kích hoả lực mãnh liệt vào 2 trận địa pháo nguy hại nhất của địch ở điểm cao 203 và 210; đồng thời tập trung hoả lực của 2 đại đội lựu pháo với 100 viên đạn chế áp địch ở điểm cao 203B và 1 đại đội lựu pháo với 100 viên đạn để tiến công vào trận địa pháo địch và tiểu đoàn dù nguỵ ở điểm cao 210. Cả 2 trận địa pháo binh địch bị tê liệt hoàn toàn đêm 30/3 và ngày 1/4. Để tạo điều kiện thuận lợi cho bộ binh xung phong vào từng điểm cao, ta đã chuyển hoả lực pháo binh chiến dịch kết hợp với pháo của trung đoàn bộ binh tiến công trên từng điểm cao, bắn phá hoại từng cứ điểm của địch. Do được chuẩn bị kỹ về tổ chức nên những hoả điểm, lô cốt, công sự phòng ngự trước tiền duyên của của địch đã nhanh chóng bị quân ta tiêu diệt, tạo điều kiện cho bộ binh đột phá tiền duyên và đánh chiếm từng điểm cao A, C, D, E giành thắng lợi.

Đợt 3 của chiến dịch diễn ra từ 1 - 7/5/1954, với nhiệm vụ đánh chiếm điểm cao cuối cùng ở phía Đông, thu hẹp phạm vi đóng quân, uy hiếp mạnh trung tâm phòng ngự của địch, nắm vững thời cơ, tiến hành tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Để đảm bảo thuận lợi cho bộ binh tiến công vào các cứ điểm còn lại ở phía Đông và phía Tây tập đoàn cứ điểm trước ngày 1/5, pháo binh ta tổ chức bắn phá hoại trước 1 phần công sự, lô cốt, hoả điểm quan trọng của địch trên từng cứ điểm bộ binh sẽ tiến công, tiến hành pháo hoả chuẩn bị thời gian ngắn 15 phút trước khi bộ binh xung phong. Từ 1 - 7/5 pháo binh đã chi viện cho bộ binh tiêu diệt tương đối nhanh các cứ điểm C1, 505A, 505, 311A và 311B ở phân khu trung tâm và khu C trong phân khu Nam Hồng Cúm của địch.

Trong đêm 6/5, pháo binh ta tiếp tục chi viện cho bộ binh đánh chiếm các cứ điểm C2, 506, 507, 310 và A1. Khác với các trận trước, về tổ chức hoả lực lần này, pháo binh chỉ tiến hành bắn phá hoại những lô cốt, hoả điểm, công sự phòng ngự quan trọng của địch trước khi bộ binh xung phong 4 - 5 giờ. Sau khi bắn phá hoại, pháo binh chỉ tiến hành bắn cấp tập ngắn để đảm bảo cho bộ binh xung phong.

Ngày 7/5, nhiệm vụ chủ yếu của pháo binh là đánh địch phản kích. Để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ này, rút kinh nghiệm trong các trận đánh phản kích trước ở đợt 1 và đợt 2, pháo binh đã chuẩn bị rất chu đáo, dự kiến trước hướng, khu vực triển khai phản kích của địch tổ chức sẵn sàng những đoạn bắn, hiệp đồng trước với bộ binh, đồng thời đã đưa 1 đài quan sát vòng sang bố trí ở Tây Nam đồi A1 để có thể phát hiện sớm những triệu chứng phản kích của địch, kết hợp chặt chẽ với các đài quan sát đi cùng với bộ binh trên tuyến 1. Mặc dù, địch có tổ chức 1 số lần phản kích lên A1 nhưng đều bị pháo binh ta bắn trúng đội hình, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ binh tiêu diệt 2 cứ điểm quan trọng cuối cùng của địch là đồi A1 và C2 chiều ngày 7/5. Một bộ phận pháo binh chiến dịch đã dùng hoả lực tham gia truy kích quân địch rút về Trung tâm Mường Thanh cho tới khi quân địch đầu hàng vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954.

 

Pháo binh đồng loạt tiến công quân Pháp ở Điện Biên Phủ. (ảnh: tư liệu)

Qua 56 ngày đêm chiến đấu, pháo binh đã chi viện cho bộ binh hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của chiến dịch, góp phần tiêu diệt toàn bộ hoả lực quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Có được chiến thắng đó là do chúng ta đã biết phát triển nghệ thuật sử dụng pháo binh một cách tài tình và đầy sáng tạo, được biểu hiện tập trung ở 3 vấn đề chính sau đây:

Một là, tập trung ưu thế lực lượng pháo binh, chi viện cho bộ binh đánh chắc thắng, tiêu diệt từng cứ điểm địch từ ngoài vào trong, tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm địch

Điện Biên Phủ là chiến dịch đầu tiên được sử dụng pháo xe kéo tập trung lớn nhất của ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngay từ đầu ta đã tập trung tới 229 khẩu pháo các loại, đến cuối chiến dịch đã lên tới 261 khẩu (gồm lựu pháo 105 mm, cối 120 mm, sơn pháo 75 mm, pháo phản lực cỡ 102 mm 6 nòng, ĐKZ 75 mm và cối 81 mm, 82 mm). Đã tập trung 100% lựu pháo, hơn 70% sơn pháo 75 mm và tới 80% cối 120 mm. Đồng thời ta đã đưa vào sử dụng những loại pháo mới có tầm bắn xa, uy lực lớn như hoả tiễn H6. Trong từng trận đánh, ta đã tập trung tạo ưu thế về hoả lực pháo binh hơn hẳn pháo binh địch. Tỷ lệ pháo binh trong trận Him Lam là địch: 1, ta: 3; trận đồi Độc Lập là địch: 1, ta: 4,5. Trong trận then chốt mở đầu chiến dịch (trận Him Lam) so sánh pháo, cối trực tiếp chi viện đánh vào mục tiêu ta hơn địch 10 lần. Nếu tính cả nhiệm vụ chế áp các mục tiêu khác, ta cũng gấp 2,6 lần (trận Mường Thanh ta đã tập trung tới 200 khẩu khi tiến hành hoả lực chuẩn bị). Về đạn, tuy có khó khăn nhưng có trận cũng tập trung tới 4.000 viên đạn các loại. Trong đợt 1, hoả lực pháo binh ta đã làm tê liệt hoàn toàn pháo binh địch. Quá trình diễn ra các trận đánh, pháo binh đã chi viện cho bộ binh thực hiện đánh nhanh, diệt gọn, làm giảm thương vong do pháo địch gây ra.

Quá trình sử dụng binh hoả lực pháo binh, ta có ưu điểm là biết đem hoả lực chủ yếu của pháo binh chiến dịch tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu, mục tiêu chủ yếu và thời cơ quan trọng của chiến dịch như chi viện cho bộ binh tiến công các trung tâm đề kháng, cụm cứ điểm, hệ thống chỉ huy, kho tàng, hệ thống trận địa pháo, sinh lực tập trung, quân cơ động...

Hai là, bố trí đội hình pháo binh hiểm hóc, vững chắc, hình thành thế vây hãm quân địch trong suốt quá trình chiến dịch

Thành công nổi bật về nghệ thuật bố trí đội hình chiến đấu pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ là các trận địa tuy phân tán, khoảng cách rộng, khoảng cách giữa các đại đội khoảng từ 3 - 5 km, nhưng vẫn tập trung được hoả lực vào hướng chủ yếu, mục tiêu chủ yếu ở mức cao. Trung đoàn pháo lựu 105 mm bố trí từ Đông Bắc Hồng Cúm đến Tây Bắc Bản Kéo, đã tạo thành một vòng cung hơn 30 km; quá trình tổ chức, bố trí trận địa ta đã kiên quyết khắc phục khó khăn, vượt mọi trở ngại, kéo những khẩu trọng pháo nặng hàng tấn lên bố trí trên các sườn núi cao bao quanh tập đoàn cứ điểm; tập trung được hoả lực vào phần lớn các mục tiêu trong các trận đánh then chốt quyết định ở khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm, bảo đảm bắn được hầu hết các mục tiêu ở cự ly bắn có lợi nhất (từ 5 - 7 km).

Các đơn vị súng cối bố trí tập trung ở hướng Đông và Đông Bắc Điện Biên Phủ, cự ly bắn của súng cối từ 600 - 800 m. Trận địa sơn pháo thọc sâu bố trí trên đồi E, cự ly bắn từ 300 - 500 m tạo nên thế rất hiểm đối với địch, mặc dù chúng tập trung mọi cố gắng nhưng không thể diệt được trận địa pháo lợi hại này của ta. Khi hoả lực pháo binh của ta xuất hiện từ các dãy núi cao ở xung quanh tập đoàn cứ điểm là đòn bất ngờ nhất đối với địch; đồng thời cũng thể hiện nét độc đáo trong nghệ thuật tổ chức, sử dụng pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Việc bố trí trận địa pháo binh phân tán, hiểm hóc, vững chắc đã tạo ra một thế trận pháo binh vững mạnh và ổn định, sử dụng pháo binh theo yêu cầu chiến dịch để pháo binh chi viện hiệu quả cho các đại đoàn bộ binh, là bí quyết và nghệ thuật sử dụng pháo binh của quân đội ta.

Ba là, vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo, phát huy sức mạnh của mỗi loại pháo

Có ưu thế lực lượng mạnh, tạo được thế bố trí hiểm hóc và vững chắc là cơ sở thuận lợi để vận dụng cách đánh có hiệu quả. Khác với các chiến dịch trước, Điện Biên Phủ là chiến dịch đầu tiên ta vận dụng cách đánh bao vây tiến công trận địa. Quán triệt phương châm: “đánh chắc, tiến chắc”, pháo binh đã vận dụng linh hoạt các cách đánh: đánh gần kết hợp với đánh xa, đánh bất ngờ, đánh liên tục, dồn dập, kéo dài, gây cho địch nhiều tổn thất về vật chất và căng thẳng về tinh thần.

Trong đợt tổ chức pháo bắn chuẩn bị để mở đầu chiến dịch, pháo binh ta đã thực hành pháo bắn chuẩn bị kéo dài 1 giờ với trên 240 khẩu pháo, cối các loại. Ngay 15 phút đầu, hoả lực pháo binh ta đã gây cho địch tổn thất nặng nề, tạo điều kiện cho bộ binh thực hành xung phong tiến công đánh chiếm cụm cứ điểm Him Lam. Đến khi pháo binh chi viện cho bộ binh tiến công tiêu diệt quân địch trong công sự kiên cố, vững chắc, pháo binh ta đều có hoả lực chuẩn bị và hoả lực chi viện phát triển tiến công. Trong quá trình vây lấn tiến tới tiêu diệt cứ điểm của địch, bộ binh thường dựa vào giao thông hào vây lấn dũi sát giao thông hào địch. Để chi viện cho bộ binh, chúng ta đã bố trí hỏa lực pháo binh trên nhiều hướng, sơn pháo và cối 82 đi cùng trực tiếp chi viện khi vây lấn và khi thời cơ đến dùng thêm lựu pháo trực tiếp bắn phá hoại. Với lối đánh này, lựu pháo thường bắn sát đội hình chiến đấu bộ binh, nên đòi hỏi việc chuẩn bị phần tử bắn phải thật chính xác và phải bắn trong tầm bắn hiệu quả nhất, ít tản mát về đạn nhất để đảm bảo an toàn cho quân ta.

Trong các trận đánh phản kích lớn của địch, hoả lực pháo binh ta đã chi viện kịp thời cho bộ binh đánh bại các trận phản kích của địch. Quá trình đánh phản kích, ta đã biết kết hợp chặt chẽ giữa hoả lực của pháo binh và hoả lực của súng bộ binh. Ta đã sử dụng pháo binh tập trung với hoả lực mạnh, mật độ đạn lớn, thời gian ngắn, vì vậy mà đã nhanh chóng sát thương lớn quân địch bộc lộ ngoài công sự. Như trận phản kích của 2 tiểu đoàn địch sáng ngày 15/3/1954, sau khi cứ điểm Độc Lập bị thất thủ, ta đã tập trung toàn trung đoàn lựu pháo bắn tập trung 200 viên đạn tiêu diệt số lượng lớn địch, số còn lại vội vàng tháo chạy về Mường Thanh. Trận phản kích tuyệt vọng của tiểu đoàn dù và tiểu đoàn lê dương địch từ trung tâm Mường Thanh ra đồi A1 và C1 cũng bị 3 đại đội pháo ta cùng sơn pháo bắn tan đội hình. Đây là trận phản kích thứ 10 và cũng là trận phản kích cuối cùng của địch ở Điện Biên Phủ.

Đánh khống chế sân bay, pháo binh ta đã phối hợp chặt chẽ với pháo cao xạ triệt nguồn tiếp tế đường không - đây là đòn đánh hiểm, đẩy địch vào thế ngày càng nguy khốn. Với cách đánh linh hoạt, sáng tạo, chúng ta đã khai thác và phát huy được mọi tính năng, tác dụng của các loại pháo, cối và sớm hình thành hai lối đánh hiệp đồng, độc lập góp phần đánh tiêu diệt lớn quân địch trong chiến dịch. Kết thúc chiến dịch, lực lượng pháo binh ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tác chiến mà Bộ Chỉ huy chiến dịch giao, đánh dấu một bước phát triển tương đối hoàn chỉnh về nghệ thuật sử dụng pháo binh trong chiến dịch của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và mở ra những vấn đề lớn đầu tiên trong xây dựng, biên soạn hệ thống lý luận về nghệ thuật quân sự sử dụng pháo binh Việt Nam, nhất là trong tác chiến hiệp đồng đánh bại phương thức phòng ngự cao nhất của địch ở địa hình rừng núi là tập đoàn cứ điểm. Đó cũng là cơ sở vững chắc để Binh chủng Pháo binh lấy làm phương hướng nghiên cứu chỉ đạo xây dựng và chiến đấu.

Đỉnh cao phát triển của nghệ thuật sử dụng pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã thể hiện trên các mặt chủ yếu về tập trung ưu thế lực lượng pháo binh một cách tuyệt đối trong suốt quá trình chiến dịch; về tạo thế bố trí pháo binh hiểm hóc, phát huy đến mức cao nhất của sức mạnh hoả lực; về nghệ thuật vận dụng cách đánh linh hoạt, sáng tạo; về xác định nhiệm vụ… trong đó, đã tập trung đánh bại pháo binh - cái mạnh của địch.

Những chiến thắng và cả những hy sinh của lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ pháo binh cho những thắng lợi trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế nói chung và đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa nói riêng mãi mãi là trang sử vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, của quân đội ta và của Binh chủng Pháo binh anh hùng. Kế thừa và phát huy kinh nghiệm về nghệ thuật sử dụng pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội pháo binh đang tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phát triển nghệ thuật sử dụng pháo binh sáng tạo và phù hợp trong điều kiện mới.

File đính kèm:

Thiếu tướng Nguyễn Văn Côn, Tư lệnh Binh chủng Pháo binh

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ QUỐC PHÒNG NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Địa chỉ: Số 7, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
*Tel: +84-69.553215 * Email: info@mod.gov.vn
Website: bqp.vn, mod.gov.vn *
Tổng Biên tập: Đại tá Nguyễn Thanh Bình
Quyết định cho phép hoạt động: Số 3548/QÐ-BQP, ngày 25/9/2012
® Ghi rõ nguồn bqp.vn hoặc mod.gov.vn khi phát hành lại thông tin từ Cổng TTÐT BQP.