(Bqp.vn) - Trải qua quá trình xây dựng và chiến đấu, lực lượng vũ trang (LLVT) Thủ đô luôn phát huy truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam: “Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; đồng thời đã thể hiện những nét truyền thống tiêu biểu của riêng mình.

Sử dụng bom ba càng tiêu diệt xe tăng địch (Ảnh: Tư liệu)
Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu
LLVT Thủ đô ra đời từ trong phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng Thủ đô. Cán bộ, chiến sỹ xuất thân từ mọi tầng lớp nhân dân, được nhân dân nuôi nấng, giúp đỡ, che chở, đùm bọc mà từng bước trưởng thành. Mục tiêu chiến đấu của LLVT Thủ đô là giành và giữ vững độc lập , tự do cho quê hương đất nước, cho dân tộc, mang lại cuộc sông ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Vì mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó, các thế hệ cán bộ chiến sỹ LLVT Thủ đô trong bất cứ tình huống nào cũng luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đội cảm tử quân sẵn sàng hy sinh tính mạng để tiêu diệt quân thù, nhiều đồng chí bị thương nặng vẫn không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng... Sự hy sinh và chiến công của họ, góp phần bảo vệ, giữ vững thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước và của nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành luôn nhận được sự giúp đỡ, che chở của nhân dân. Trong 60 ngày đêm giam chân địch trong thành phố, nhân dân quyên góp, vận chuyển, cung cấp lương thực, thực phẩm... tạo điều kiện cho LLVT Thủ đô duy trì chiến đấu dài ngày trong thành phố. Cũng là nhân dân đã chở đò đưa Trung đoàn Thủ đô vượt qua sông Hồng rút lên chiến khu an toàn trong vòng vây khép kín của kẻ thù. Trong hai cuộc kháng chiến cũng như xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, các tầng lớp nhân dân, tạo mọi điều kiện mọi mặt cho LLVT Thủ đô hoàn thành nhiệm vụ.
Đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân vừa là truyền thống, vừa là nguồn sức mạnh, là cơ sở bảo đảm cho LLVT Thủ đô giữ vững bản chất cách mạng. Đó cũng là điều kiện để LLVT Thủ đô hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh
Là lời thề trước khi bước vào cuộc chiến, là lời khen tặng và ghi nhận hành động chiến đấu dũng cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho cán bộ chiến sỹ LLVT Thủ đô. Đó là sự tiếp nối ý chí độc lập tự cường của bao thế hệ, trở thành biểu tượng của ý chí, là tinh thần quyết tâm chiến đấu của cán bộ chiến sỹ LLVT Thủ đô.
Mở đầu Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, LLVT Thủ đô đã thề sống chết với Thủ đô, quyết tử để bảo vệ Thủ đô. Đã kiên cường, dũng cảm chiến đấu 60 ngày đêm tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Mùa Xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư khen ngợi cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô: “Các em là Đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Đây là vinh dự đặc biệt Người dành cho LLVT Thủ đô.
Lịch sử mãi mãi khắc ghi hình ảnh các chiến sỹ cảm tử quân ôm bom ba càng lao vào diệt xe tăng địch, trận chiến đấu của Đội liên lạc đặc biệt Anh hùng do đồng chí Nguyễn Ngọc Nại chỉ huy, cùng du kích, tự vệ Tứ Tổng đưa đường cho Trung đoàn Thủ đô rút lui, đánh nghi binh, hy sinh đến người cuối cùng, tô thắm truyền thống LLVT Thủ đô Anh hùng.
Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, dưới mưa bom bão đạn của máy bay địch, các trận địa của bộ đội, dân quân, tự vệ Thủ đô vẫn “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Chiến sĩ tự vệ, hiên ngang trên các đài quan sát phòng không phát hiện máy bay tầm thấp của địch, đếm và xác định tọa độ bom rơi, không sợ nguy hiểm hy sinh, không rời vị trí chiến đấu ngay cả khi máy bay địch ném bom đài quan sát.
Trong thời bình, LLVT Thủ đô tham gia xử trí nhiều tình huống phức tạp liên quan đến trật tự xã hội, cứu nạn, cứu hộ... luôn hoàn thành và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, được cấp ủy, chính quyền và nhân dân Thủ đô tin cậy.
Đoàn kết, sáng tạo, đề cao cảnh giác
LLVT Thủ đô thành lập trên cơ sở thống nhất, hội tụ các đội vũ trang tiền thân ra đời trong phong trào đấu tranh của các tổ chức đoàn thể quần chúng cách mạng ở Hà Nội, các chi đội giải phóng quân của chiến khu cách mạng, các đơn vị vũ trang của tỉnh Hà Đông và Sơn Tây. Từ các tổ chức khác nhau, địa phương khác nhau, xuất thân từ các tầng lớp khác nhau tập trung lại, song cán bộ, chiến sỹ LLVT Thủ đô luôn đoàn kết, gắn bó thống nhất ý chí và hành động. Mối quan hệ gắn bó mật thiết khăng khít giữa LLVT Hà Nội với LLVT tỉnh Hà Đông, tỉnh Sơn Tây trong kháng chiến chống Pháp và giữa LLVT tỉnh Hà Tây từ tháng 4/1965 đến tháng 8/2008 là biểu hiện sinh động cho tinh thần đoàn kết.
Sinh ra, hoạt động trên địa bàn Thủ đô, người chiến sĩ Thủ đô trước đây cũng như ngày nay, có điều kiện, môi trường thuận lợi để không ngừng nâng cao trình độ học vấn và nhận thức, là thuận lợi để LLVT Thủ đô tiếp thu, vận dụng sáng tạo những tri thức khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật quân sự.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đơn vị vũ trang của Hà Nội đã sáng tạo nhiều hình thức, biện pháp phương thức tuyên truyền vận động hiệu quả. Trong thời kỳ Hà Nội bị tạm chiếm, LLVT Thủ đô đã sáng tạo cách đánh dùng lực lượng nhỏ, tinh nhuệ, bí mật tập kích, đánh bất ngờ mà điển hình là trận đánh sân bay Bạch Mai và Gia Lâm.
Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước, quân và dân Thủ đô đã sáng tạo nên thế trận phòng không nhân dân rộng khắp, nhiều tầng, nhiều lớp, bố trí hiểm hóc, bất ngờ, nhờ đó bảo vệ vững chắc các mục tiêu đảm nhiệm, trực tiếp bắn cháy nhiều máy bay địch, bắt sống giặc lái.
Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, tình hình diễn biến phức tạp. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã xác định nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ hàng đầu của LLVT Thủ đô. Đây là sự sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô trong thời kỳ mới. Với tinh thần đoàn kết, sáng tạo, đề cao cảnh giác, cán bộ chiến sỹ LLVT Thủ đô trong bất cứ tình huống nào cũng không bị động, bất ngờ, luôn bình tĩnh, tự tin, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu với hiệu suất cao.
Quyết đánh, biết thắng, đã đánh là thắng
Cách mạng tháng Tám vừa thành công, chủ nghĩa đế quốc đã câu kết với các thế lực phản cách mạng trong nước và ngoài nước bao vây tìm mọi cách tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ, dàn xếp để thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần nữa. LLVT Thủ đô chiến đấu với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, đã tổ chức nhiều trận đánh với cách đánh đầy tính sáng tạo, đạt hiệu suất cao, góp phần cùng toàn quân, toàn dân đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt cuối năm 1972, chúng đã ồ ạt đưa máy bay B-52 ra tàn phá Hà Nội, hòng bắt chúng ta quay trở về “thời ký đồ đá”. Không khuất phục, LLVT Thủ đô kiên cường chiến đấu, cùng các lực lượng bắn rơi hàng trăm máy bay trong đó có nhiều máy bay B-52 vũ khí hiện đại nhất của thế kỷ XX, bảo vệ vững chắc Thủ đô Hà Nội, buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận thất bại và chấm dứt chiến tranh Việt Nam không điều kiện.
Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, các thế hệ cán bộ chiến sỹ LLVT Thủ đô Hà Nội kế tục và phát huy truyền thống anh dũng, kiên cường chống ngoại xâm, sáng tạo trong lao động, đoàn kết, nhân ái, bao dung, đồng thời, kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc “1000 năm Thăng Long - Hà Nội”, lập nên những chiến công hiển hách, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ của cách mạng Việt Nam. Sự hy sinh, cống hiến, cùng những chiến công của các thế hệ cán bộ, chiến sỹ LLVT Thủ đô đã hun đúc nên giá trị truyền thống tiêu biểu, đặc sắc đúng như lời Bác Hồ khen “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”.
Những bài học kinh nghiệm và truyền thống được đúc kết trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành ngày nay vẫn còn nguyên giá trị trong xây dựng LLVT Thủ đô vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Nếp sống văn hóa, kỷ luật tự giác, nghiêm minh
Ngay từ khi được thành lập, Đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu đã được xây dựng theo phương hướng của một đội quân cách mạng. Trong một bài báo đăng trên báo Cứu quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu gương Đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu: “Về mặt sinh hoạt hàng ngày, anh em bao giờ cũng giữ kỷ luật và trật tự rất nghiêm. Sáng dậy từ 5 giờ và chỉ trong 5 phút là đã chăn chiếu gọn gàng, áo quần tề chỉnh để ra tập thể thao. Tuy quần áo thiếu thốn, nhưng anh em cũng cố gắng ăn mặc sạch sẽ. Mỗi ngày anh em để riêng 1 giờ về việc chăm nom vệ sinh trong trại. Lúc nào, nơi ăn chốn ngủ cũng sạch sẽ. Người ta thường nói, muốn biết tinh thần của một bộ đội, chỉ cần xem cách xếp đặt và cách ăn ở của đội viên là đủ rõ. Thì đây, anh em Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu đã tỏ rõ cho mọi người biết là những phần tử đủ tinh thần chiến đấu với cách sinh hoạt thật giản đơn” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 254 - 255).
Hoạt động và chiến đấu ở Thủ đô, LLVT Thủ đô luôn mang trong mình truyền thống của Hà Nội nghìn năm văn hiến. Luôn giữ vững niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng luôn lạc quan, tin tưởng vào sự tất thắng trong chiến đấu dù có cam go, ác liệt. Những ngày cuối năm 1946, đầu năm 1947, trong lòng Hà Nội bị bao vây bốn phía, tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ, chiến sĩ vẫn được giữ vững. Lời ca tiếng hát vẫn vang vọng ngay tại trận địa còn khói súng.
Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, ngay từ năm 1966, khi cuộc chiến tranh leo thang của Mỹ đã cận kề Hà Nội, bà Madơlen Rípphô, một nữ văn sĩ Pháp, sau khi chứng kiến sự bĩnh tĩnh, lạc quan của quân, dân Thủ đô sẵn sàng chiến đấu, đã phát biểu: “Tôi còn thấy Hà Nội đẹp hơn vì Hà Nội có những con người có ý chí quyết thắng và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng. Trong những vườn hoa, bên những cô gái trồng hoa là những người đào hầm. Ở ngoại thành, bên những người nông dân tấp nập chăm bón lúa là những trận địa với đủ loại cỡ súng sẵn sàng. Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh đánh phá Hà Nội - nhất định chúng sẽ bị giáng những đòn đích đáng”.
LLVT Thủ đô ngày nay dù bất luận trong hoàn cảnh nào luôn giữ vững niềm tin và tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Ra sức phấn đấu xây dựng LLVT ngày càng vững mạnh toàn diện, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Thủ đô văn minh, giàu đẹp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thành tích vẻ vang của LLVT Thủ đô Hà Nội
- LLVT Thủ đô được Đảng, Nhà nước 03 lần tuyên dương Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kỳ đổi mới (1978, 2002, 2005);
- 01 Huân chương Sao vàng (2011);
- 03 Huân chương Hồ Chí Minh (1984, 1985, 2002);
- 04 Huân chương Quân công (hạng Nhất: 1984; hạng Nhì: 2006; 02 hạng Ba: 2004);
- 04 Huân chương Chiến công (02 hạng Nhất, năm 1983 và 2000; 02 hạng Ba, năm 2004 và 2006);
- 01 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất (2005);
- 02 Huân chương Itxala do Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng (01 hạng Nhì cho tập thể; 01 hạng Ba cho cá nhân năm 2010) ;
- 2.361 bà mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng;
- 231 đơn vị và 63 cá nhân thuộc LLVT Thủ đô Hà Nội được phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân;
- 8.989 gia đình được tặng Bảng vàng danh dự và hơn 1 triệu lượt tập thể, cá nhân thuộc LLVT Thủ đô được tặng thưởng huân, huy chương các loại;
- 06 lần được tặng Cờ thưởng luân lưu Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược;
- Hàng trăm lần được tặng Cờ thi đua, Bằng khen của Chính phủ, Bộ Quốc phòng và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội;
- 02 Cờ thi đua của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia (2009 và 2010)...
Các đội tiền thân của lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội
Cuối
năm 1944, thời cơ Cách mạng Việt Nam xuất hiện và phát triển dần đến
chín muồi. Trước tình hình đó, các đội tiền thân của lực lượng vũ trang
Thủ đô lần lư¬ợt ra đời tích cực chuẩn bị, xung kích đi đầu và làm nòng
cốt Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm
1945.
Đội
Tự vệ chiến đấu được thành lập trong các đoàn thể cứu quốc, biên chế tổ
chức tư theo nguyên tắc mỗi tổ có từ 3 - 5 người, ba tổ thành một tiểu
đội, ba tiểu đội thành một liên đội, ba liên đội họp lại thành một Đoàn.
Tháng
11/1944, Đội thanh niên xung phong tuyên truyền thành Hoàng Diệu ra
đời, sau đổi tên là “Đoàn Thanh niên tuyên truyền xung phong thành Hoàng
Diệu”.
Cuối
năm 1944, Đội Tự vệ xung phong ngoại thành được thành lập. Đội gồm 21
người có nhiệm vụ tuyên truyền xung phong, bảo vệ cơ sở, bảo vệ những
cuộc đấu tranh, đi đầu trong các hoạt động cách mạng.
Ngày
01/4/1945, Đội Danh dự Việt Minh được tổ chức, với nhiệm vụ trấn áp các
tên phản động tay sai. Đội do Thành ủy trực tiếp tổ chức, lãnh đạo.
Tháng
5/1945, Đội Công nhân xung phong được thành lập với nhiệm vụ vũ trang
tuyên truyền ở nội, ngoại thành. Các thành viên ban đầu của Đội lấy tên
theo bí danh để giữ bí mật và tỏ rõ chí hư¬ớng của mình: Vì Nước, Vì
Dân, Vì Giống, Vì Nòi.
Ngày
25/8/1945, Đội Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu ra đời, với nhiệm vụ
xung kích tuyên truyền cho nhân dân, huấn luyện quân sự, chính trị cho
Tự vệ Thành, tiêu diệt Việt gian, phản động chống phá cách mạng; khi có
tác chiến thì chiến đấu như một đơn vị quân đội thực sự. Đoàn Thanh niên
xung phong thành Hoàng Diệu đã tổ chức diễn thuyết và mít tinh ở nhiều
nơi trong nội thành và ngoại thành. Đội Danh dự và Tự vệ chiến đấu đẩy
mạnh hoạt động diệt trừ những tên Việt gian tay sai của Nhật. Tất cả các
đoàn thể cứu quốc, các đơn vị tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong
đều tích cực tìm kiếm vũ khí để tự trang bị và tổ chức huấn luyện quân
sự chuẩn bị sẵn sàng cho khởi nghĩa vũ trang cách mạng. Đêm 13/8, Uỷ ban
khởi nghĩa toàn quốc đã hạ lệnh Tổng khởi nghĩa. Ngày 17/8, Ủy ban Quân
sự cách mạng Hà Nội họp nhất trí đánh giá: Thời cơ khởi nghĩa thực sự
đã chín muồi và quyết định phương thức và kế hoạch khởi nghĩa.
Sáng
ngày 19 tháng 8, Đội Tự vệ xung phong ngoại thành và Thanh niên cứu
quốc, cùng đông đảo quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở một
số địa phương, sau đó cùng với các lực lư¬ợng hợp lực tiến về Nhà Hát
Lớn giành chính quyền toàn Thành phố.
Tại
Quảng trường Nhà Hát Lớn, cuộc mít tinh hàng chục vạn người diễn ra,
đồng chí Nguyễn Huy Khôi, thay mặt ủy ban Quân sự cách mạng, đọc lời
hiệu triệu của Việt Minh, hô hào quần chúng vùng lên khởi nghĩa, lập
Chính phủ cộng hòa dân chủ Việt Nam, giành độc lập, tự do và hạnh phúc
cho dân tộc.
Đến
tối 19/8, các cơ quan quan trọng của chính quyền Bảo Đại tại Hà Nội đã
về tay cách mạng. Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội thúc đẩy cuộc Tổng khởi
nghĩa trong cả nước. Đây là chiến công lớn đầu tiên hết sức quan trọng
của lực lượng vũ trang Thủ đô.
Nhà
nước cách mạng ra đời, Hà Nội được gọi là Khu đặc biệt Hà Nội. Bộ Chỉ
huy Bộ đội Hà Nội được củng cố và chuyển thành Bộ Chỉ huy Khu đặc biệt
Hà Nội đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ Quốc
phòng và Bộ Tổng tham mưu làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ quan trọng yếu của
Trung ương và bảo vệ Thủ đô. Các đơn vị tự vệ rộng rãi ở các cơ quan,
nhà máy, khu phố được hình thành trước và trong Cách mạng Tháng Tám được
củng cố lại và gọi tên chung là Tự vệ Thành.
Ngày
02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, các lực lư¬ợng vũ trang
Thủ đô cùng với hàng chục vạn nhân dân Hà Nội và các tỉnh lân cận đã
tham dự lễ Độc lập đầu tiên, đón chào Chính phủ lâm thời ra mắt quốc
dân, và nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập, mở đầu một
kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
Cách
mạng Tháng Tám thành công, chính quyền dân chủ nhân dân ra đời. Song
thực dân Pháp không từ giã xâm lược nước ta, đã câu kết với thế lực phản
động trong và ngoài nước, tìm mọi cách tiêu diệt chính quyền cách mạng
non trẻ. Cách mạng Việt Nam rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.

Lực lượng vũ trang và nhân dân Thủ đô Hà Nội lập chiến luỹ chặn địch trên đường phố (Ảnh: Tư liệu)
Lực
lượng vũ trang Thủ đô cùng nhân dân Thủ đô chống thù trong giặc ngoài,
bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (9/1945 - 12/1946)
Ngày
25/11/1945, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, xác
định nhiệm vụ trọng tâm là: “Bảo vệ, củng cố và giữ vững chính quyền,
chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân
dân”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Nội, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa
xây dựng phát triển lực lượng, tích cực tham gia và làm nòng cốt trong
các phong trào “Diệt giặc dốt”, diệt giặc đói” và “Diệt giặc ngoại xâm”.
Các đơn vị kiên quyết, mưu trí đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng,
đập tan các âm mưu và hành động chống phá của các thế lực phản động,
phản cách mạng trong và ngoài nước. Ngày 19/10/1946, Hội nghị quân sự
toàn quốc của Đảng họp đã nhận định “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh
mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.
Để
chuẩn bị kháng chiến, cả nước được chia thành 12 chiến khu. Khu đặc
biệt Hà Nội được đổi tên là Chiến khu XI. Khu ủy, ủy ban bảo vệ, Bộ Chỉ
huy chiến khu XI đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Thành ủy
Hà Nội được kiện toàn và đổi thành Khu ủy XI. Bộ Chỉ huy Chiến khu XI
quản lý, chỉ huy cả lực lượng Vệ quốc đoàn và dân quân tự vệ tại Thủ đô.
Ngày
20/10/1946, tại trụ sở Bộ Chỉ huy Khu đặc biệt Hà Nội đồng chí Lê Quảng
Ba, nguyên Khu trưởng, đã tiến hành lễ bàn giao nhiệm vụ cho đồng chí
Vương Thừa Vũ. Chiến khu XI ra đời đáp ứng yêu cầu thống nhất chỉ huy
các lực lượng vũ trang bảo vệ Thủ đô.
Bộ
Chỉ huy Chiến khu XI được kiện toàn. Lực lượng chủ lực bao gồm 05 tiểu
đoàn Vệ quốc đoàn, 01 đại đội cảnh vệ, 04 trung đội pháo cao xạ ở các
pháo đài Láng, Xuân Canh, Thổ Khối, Xuân Tảo, với tổng quân số là 2.516
người, được trang bị 1.516 súng trường, 03 trung liên, 01 đại liên, 1
badôka 60 ly, 1.000 lựu đạn, 80 bom ba càng, 200 chai xăng cơrếp, 07
khẩu pháo cao xạ, 01 khẩu sơn pháo 75 ly, 01 khẩu pháo 25 ly, 02 khẩu
cối 60 ly. Lực lượng địa phương gần 10.000 người, với Đội tự vệ chiến
đấu làm nòng cốt, vũ khí có khoảng 500 - 600 súng trường, 02 trung liên,
một số súng ngắn, một số mìn, lựu đạn và giáo mác. Chiến khu tổ chức 13
đội quyết tử đánh xe tăng và 36 tổ du kích đặc biệt.
Để
bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu với địch, nội thành Hà Nội được
chia thành 3 liên khu. Liên khu 1 Đông Bắc thành phố, tương đương với
quận Hoàn Kiếm ngày nay. Liên khu 2 ở phía Nam, bao gồm toàn bộ quận Hai
Bà Trưng ngày nay. Liên khu 3 ở phía Tây, bao gồm quận Đống Đa, một
phần quận Ba Đình ngày nay. Để tăng cường lực lượng cho Thủ đô chiến
đấu, Bộ Tổng chỉ huy cũng quyết định bổ sung 2 đại đội của Tiểu đoàn 56,
Trung đoàn 13 Hà Đông cho Hà Nội.
Với
ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ”, quân dân Thủ đô chủ động mọi mặt, sẵn sàng cùng
quân dân cả nước bước vào cuộc kháng chiến. Khi thực dân Pháp ra “Tối
hậu thư”. Chiều 19 tháng 12, Bộ Chỉ huy Chiến khu XI trả lời bằng Mệnh
lệnh tấn công. Quân và dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu toàn quốc kháng
chiến.
Chiến đấu giam chân địch trong thành phố với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” (19/12/1946 - 19/2/1947)
Hưởng
ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lực
lư-ợng vũ trang Thủ đô đồng loạt tiến công 21 vị trí của quân Pháp đóng
quân và hoàn toàn làm chủ tình thế, dựa vào công sự, chiến lũy và thế
liên hoàn của các căn nhà, dãy phố kiên cường chiến đấu gây cho địch
nhiều tổn thất. Các chiến sỹ cảm tử quân dũng cảm ôm bom ba càng lao vào
diệt xe tăng, thiết giáp của địch. Trên toàn thành phố, các cuộc tập
kích địch liên tiếp nổ ra, ngăn chặn bước tiến của địch trên các đường
phố.
Vừa
chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng theo đề nghị của ủy ban kháng chiến
Liên khu 1, Khu ủy và Bộ Chỉ huy Chiến khu XI cho phép thành lập Trung
đoàn Liên khu 1 để tập trung chỉ huy tác chiến. Ngày 06/01/1947, lễ
thành lập Trung đoàn Liên khu 1 được tổ chức trọng thể. Hội nghị quân sự
toàn quốc họp ngày 12/01/1947, tại Chúc Sơn (Chương Mỹ), quyết định
tặng Trung đoàn Liên khu 1 của Hà Nội danh hiệu Trung đoàn Thủ đô.
Cùng
với việc thành lập Trung đoàn Thủ đô, Bộ Tổng chỉ huy tăng cường cho
mặt trận Hà Nội Tiểu đoàn 45 (Trung đoàn 9 Sơn Tây) và Tiểu đoàn 64
(Trung đoàn 13 Hà Đông). Tăng sức mạnh chiến đấu, ngăn chặn địch đánh ra
ngoại thành và bảo vệ Liên khu I. Cuộc chiến đấu giam chân địch trong
thành phố của quân dân Thủ đô được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan chỉ đạo sâu sát từng ngày. Nhân dịp Tết Đinh Hợi (1947), Chủ tịch
Hồ Chí Minh gửi thư động viên cán bộ chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô. Người
viết: “... Các em là đội cảm tử. Các em quyết tử để Tổ quốc quyết
sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy
nghìn năm để lại. Cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng,
Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng,
Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em, nay các em gan góc tiếp thu cái
tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về
sau...”
Để
xứng đáng với niềm tin yêu của Người, đêm 30 Tết, các chiến sĩ Hà Nội
đã mở đợt tấn công địch ở nhiều nơi và cắm cờ đỏ sao vàng trên đỉnh Tháp
Rùa, thể hiện tinh thần kiên cường bất khuất và quyết tâm chiến đấu với
quân thù, giữ vững các vị trí trọng yếu, ngăn chặn địch tiến công, gây
cho địch tổn thất nặng nề. Tại Nhà Xô Va, ta diệt và làm bị thương 40
tên địch, đốt cháy 1 xe tăng, 1 xe thiết giáp. Trận Đồng Xuân, ta tiêu
diệt gần 200 tên địch. Đứng trước tình hình khó khăn, để bảo toàn lực
lượng, ngày 15 tháng 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định Trung đoàn Thủ
đô bí mật rút quân bảo toàn lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Bác
Hồ khen ngợi: “Các chú giam chân địch một tháng là thắng lợi. Đến nay giữ Hà Nội được hai tháng là đại thắng lợi”.
Do
tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, ý chí quyết tâm cao, với sự giúp đỡ của
nhân dân và du kích Tứ Tổng (nay là phường Tứ Liên, quân Tây Hồ), Trung
đoàn Thủ đô với đầy đủ vũ khí phương tiện đã rút khỏi Thành phố, vượt
qua sông Hồng, lên Chiến khu bảo đảm bí mật, an toàn, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp gửi thư khen: “... Các chiến sĩ đã chiến đấu 2 tháng ròng
rã để giữ vững ngọn cờ nước Việt giữa thủ đô Hà Nội. Các chiến sĩ đã
nêu cao tinh thần oanh liệt của dân Việt và thanh danh rực rỡ của Quân
đội quốc gia Việt Nam.
Các
chiến sĩ lại mở được con đường máu vượt qua vòng vây quân địch để thực
hiện chỉ thị bảo toàn chủ lực. Các chiến sĩ sẽ tiếp tục chiến đấu cho Tổ
quốc Việt Nam. Chúng ta sẽ chiến đấu 10 năm hay lâu hơn nữa nếu cần...”
Đợt
chiến đấu mở đầu Toàn quốc kháng chiến của quân dân Hà Nội đã kết thúc
thắng lợi, góp phần rất quan trọng chặn đánh quân địch, bảo vệ cơ quan Trung ương, Chính phủ, các đoàn thể và các cơ quan của thành phố rút lên Chiến khu an toàn, đã viết nên bản hùng ca bất hủ.
Phát
triển và đẩy mạnh chiến tranh du kích góp phần đưa cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện đến thắng lợi, tiếp quản giải phóng Thủ đô (1947
- 1954)
Sau
khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Liên khu 1, lực lượng chủ lực của Chiến
khu XI, bao gồm Tiểu đoàn 145, 523 và 77. Bộ Chỉ huy Chiến khu đã quyết
định sát nhập các đơn vị thành một Trung đoàn 80. Tiếp tục chiến đấu
ngăn chặn và tổ chức các trận chiến đấu phản kích chiếm lại mục tiêu,
gây tổn thất lớn cho địch: Trận phòng ngự ở Cự Đà (Hà Đông), chỉ có Ban
Chỉ huy trung đội đã buộc 200 quân Pháp có xe tăng và cơ giới phải rút
quân sau một ngày tiến công liên tục. Đây là một trận đánh tiêu biểu cho
ý chí kiên cường bất khuất, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng không chịu
đầu hàng giặc của các cán bộ chiến sĩ Mặt trận Hà Nội. Đồng chí Trường
Chinh, Tổng Bí thư Trung ương Đảng, đã ghi nhận: “Trận Cự Đà thật đáng
nêu gương cho toàn quốc noi theo”. Trong trận tiến công thị xã Hà Đông,
ta diệt 88 tên địch, phá hủy 01 khẩu 12,7 mm và 1 xe Jép.
Ngày
25/7/1947, theo quyết định của Trung ương, địa bàn Chiến khu XI được mở
rộng bao gồm Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Để thúc đẩy việc gây dựng cơ
sở ở Hà Nội, tháng 9/1947, Khu ủy XI quyết định lập lại Thành uỷ Hà Nội,
đến tháng 11/1947 đồng chí Lê Quang Đạo được cử làm Bí thư thay đồng
chí Đào Văn An. Khu ủy cũng quyết định sát nhập 4 huyện Hoài Đức, Đan
Phượng, Thanh Oai và Thanh Trì của tỉnh Hà Đông vào Hà Nội để mở rộng
địa bàn hoạt động của lực lượng vũ trang Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội đã chia
địa bàn Hà Nội, gồm cả nội thành, 3 quận ngoại thành và 4 huyện mới sát
nhập thành hai Liên quận huyện 1 và 2. Trung đoàn 80 đổi phiên hiệu
thành Trung đoàn 48.
Ngày
20/9/1947, Bộ Chỉ huy Chiến khu XI đã quyết định thành lập Thành đội bộ
dân quân Hà Nội với nhiệm vụ chăm lo phát triển lực lượng dân quân du
kích và chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích trong thành phố. Thành
đội lúc đầu đứng chân trên đất Cần Kiệm (huyện Thạch Thất). Sau đó
chuyển đến các huyện Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Đức.
Ngày
25/01/1948, thực hiện Sắc lệnh số 120.SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ
Quốc phòng tổ chức lại các khu trong cả nước. Tại Bắc Bộ, Chiến khu I và
XII được nhập lại thành Liên khu I, Chiến khu XI được hợp nhất với các
Chiến khu II, III thành Liên khu III, Chiến khu IV đổi là Liên khu IV
bao gồm cả Bình - Trị - Thiên. Bộ Tư lệnh Liên khu III trực tiếp phụ
trách về mặt quân sự với các mặt trận Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây.
Ngày
12/5/1948, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định 180.TCH, Trung đoàn
48 được mang danh hiệu Trung đoàn Thăng Long. Đây là một vinh dự đặc
biệt đối với cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 48.
Tháng
10/1948, Trung ương Đảng quyết định tách Hà Nội ra khỏi Liên tỉnh Lưỡng
Hà, thành Khu đặc biệt do Liên khu uỷ III phụ trách. Tháng 11/1948,
Thành uỷ Hà Nội được lập lại. Từ ngày 23/12/1948 đến tháng 6/1949, ta
phát động chiến dịch tổng phá tề. Trong chiến dịch này, ta phá được 23
ban tề, bắt 83 nhân viên tề ra vùng tự do, diệt trừ được một số tên Việt
gian.
Ngày
11/5/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh đặt ủy ban kháng chiến Hà
Nội trực thuộc Chính phủ. Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo Đặc khu Hà
Nội. Đồng chí Trần Quốc Hoàn được chỉ định làm Bí thư Đặc khu ủy Hà Nội.
Bộ
Tổng tư lệnh quyết định thành lập Mặt trận Hà Nội. Ban Chỉ huy Mặt trận
Hà Nội không chỉ trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang Thủ đô
mà còn có trách nhiệm phối hợp tổ chức cho lực lượng vũ trang khác hoạt
động trên địa bàn Hà Nội như Trung đoàn Thăng Long, các đơn vị biệt động
của Liên khu III...
Thành
uỷ và Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội thường xuyên phát động các đợt hoạt
động, phối hợp chặt chẽ với chiến trường toàn quốc. Hà Nội vừa là hậu
phương vừa là tiền tuyến trong cuộc kháng chiến trường kỳ, anh dũng của
dân tộc. Các trận đánh của lực lượng vũ trang Thủ đô gây tổn thất lớn
cho địch, khiến cho trung tâm bộ máy điều hành chiến tranh của thực dân
Pháp trên chiến trường Đông Dương khiếp sợ.
Từ
cuối năm 1949 đến hết mùa Xuân năm 1950, quân và dân Hà Nội đã đánh hơn
200 trận và tổ chức hàng chục cuộc đấu tranh chính trị. Ta dùng các
hình thức tập kích, phục kích, pháo kích, gài mìn và đánh địch bằng
nhiều loại vũ khí, đã diệt hàng trăm tên, bắt sống 34 tên và vận động
một số lính ngụy ra với kháng chiến. Trận tập kích sân bay Bạch Mai,
Tiểu đoàn 108 đã phá huỷ 25 máy bay, 60 vạn lít xăng dầu, 32 tấn vũ khí
và một số trang bị của địch. Tháng 3/1954 đánh sân bay Gia Lâm phá hủy
18 máy bay, góp phần làm gián đoạn cầu hàng không tiếp tế của địch cho
Điện Biên Phủ.
Ngày
07/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ngày 21/7/1954, Hiệp
nghị Giơnevơ về Đông Dương được ký kết. Thực dân Pháp phải cam kết tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, Lào
và Campuchia, Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam.
Theo Hiệp định Giơnevơ, Hà Nội còn nằm trong vùng tập kết của quân đội Pháp 80 ngày trước khi bàn giao cho ta.
Tiếp
quản thành phố Hà Nội, là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẻ, vô cùng phức tạp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giáo dục các đoàn quân tiến
về giải phóng Thủ đô. Ngày 19/9/1954, tại Đền Hùng (Phú Thọ) nói chuyện
với cán bộ Đại đoàn 308 trên đường tiến về tiếp quản Thủ đô, Người căn
dặn : “Các Vua Hùng đã có công dựng n-ước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước… Tám chín năm nay do quân dân ta kiên quyết kháng chiến nên
mới có thắng lợi trở về Hà Nội, vì thế các chú được Trung ương Đảng và
Chính phủ giao cho nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô, là nhận được một vinh dự
rất lớn…”.
Được
sự lãnh đạo sát sao của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, công
tác chuẩn bị tiếp quản Hà Nội về mọi mặt đã được triển khai nhanh chóng.
Ngày 10/10/1954, đại quân từ năm cửa ô tiến vào Thủ đô Hà Nội. Mỗi cánh
quân đều có cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Hà Nội làm nhiệm vụ dẫn đường,
các tuyến đường có đoàn quân đi qua, tự vệ cùng các đoàn thể cách mạng
tổ chức giữ gìn an ninh trật tự. Sau một thời gian đấu trí, đấu lực
quyết liệt với địch, ta đã tiếp quản tuyệt đối an toàn, nhanh gọn toàn
bộ thành phố Hà Nội: bao gồm các căn cứ quân sự, 129 công sở, xí nghiệp,
bệnh viện, tr-ường học được nguyên vẹn. Lực lượng vũ trang Thủ đô đã
góp phần quan trọng trong quá trình tiếp quản.
Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta kết thúc thắng lợi.
Song, đế quốc Mỹ, với bản chất hiếu chiến, phản cách mạng đã thay chân
thực dân Pháp, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam nước
ta thành thuộc địa kiểu mới.
Quán
triệt, thực hiện đường lối của Đảng, quân dân Thủ đô Hà Nội, vừa sản
xuất, vừa chiến đấu, tích cực chi viện sức người, sức của cho cách mạng
miền Nam. Sau ngày tiếp quản Thủ đô đến năm 1960, là thời kỳ lực lượng
vũ trang Thủ đô tập trung củng cố lực lượng, tham gia ổn định chính trị,
trật tự xã hội, khôi phục, phát triển kinh tế sau chiến tranh.
Những
thành tích bước đầu của các lực lượng vũ trang bảo vệ Thủ đô được Chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi, Người viết: “Trước ngày các chú vâng
lệnh về Thủ đô, Bác đã dặn dò các chú điều gì nên làm, điều gì nên
tránh. Khi vào tiếp quản Thủ đô các chú đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ như
lời Bác dặn: cùng anh em công an và nhân dân giữ gìn trật tự trị an,
giữ đúng kỷ luật, bảo vệ tính mạng và tài sản của đồng bào và ngoại
kiều… Bác vui lòng khen ngợi các chú…” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1996, tr. 381).
Đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, lực lượng vũ trang Thủ đô đã
nhanh chóng củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng theo Nghị quyết 12 của
Trung ương Đảng “Tiến dần từng bước lên chính quy và hiện đại”. Thành
đội Hà Nội cùng với hệ thống các khu đội, huyện đội, xã đội đã ra đời
thay thế Mặt trận Hà Nội và hệ thống quân sự địa phương cũ trong chiến
tranh. Lực lượng vũ trang Thủ đô đã góp phần tích cực cùng các lực lượng
khác giữ vững ổn định chính trị ở Thủ đô, sẵn sàng chiến đấu, chi viện
chiến trường, cùng nhân dân thành phố khắc phục hậu quả chiến tranh,
khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế văn hóa, tạo ra tiềm lực vật
chất, chính trị và tinh thần, làm cơ sở xây dựng nền quốc phòng toàn dân
vững mạnh.
Trước
yêu cầu của nhiệm vụ quân sự, sẵn sàng đối phó với âm mưu mở rộng chiến
tranh của đế quốc Mỹ, ngày 01/9/1964, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số
102/QĐ/QP thành lập Bộ Tư lệnh Thủ đô để thống nhất chỉ huy các lực
lượng vũ trang ở Hà Nội.
Bộ
Tư lệnh Thủ đô nhanh chóng phát triển lực lượng, xây dựng thế trận, sẵn
sàng đánh trả máy bay địch, tích cực tham mưu với Thành ủy về công tác
phòng không nhân dân. Trong vai trò thường trực Hội đồng phòng không
nhân dân thành phố, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã chỉ đạo các ngành, các cấp tích
cực triển khai chuẩn bị có hiệu quả các mặt công tác phòng không nhân
dân, sẵn sàng đối phó với các hành động đánh phá của địch.
Đế
quốc Mỹ mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc, ngày 17/7/1966, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào chiến sĩ đẩy mạnh kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước: “... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm
hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có
thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ ! Không có gì quý
hơn Độc lập - Tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 12, tr. 107 - 108. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội - 1996).
Hưởng
ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ 17/7 - 17/8/1966, miền Bắc
đã bắn rơi 138 máy bay địch. Ngày 14/12/1966, bộ đội không quân, cao
xạ, tên lửa, dân quân, tự vệ Hà Nội đã bắn rơi 8 máy bay địch, trong đó
có chiếc thứ 1.600 bị bắn rơi trên miền Bắc. Với những thành tích nổi
bật của quân dân Hà Nội, ngày 15/12/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi
thư khen “... Quân và dân Hà Nội càng đánh càng giỏi, đã bắn rơi chiếc
máy bay Mỹ thứ 1.600 trên miền Bắc. Hà Nội vừa chiến đấu khá, vừa sản
xuất khá, vừa giữ gìn trật tự trị an tốt... Bác tặng Thủ đô lá cờ:
“Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ngày
19/5/1967, quân và dân toàn thành phố đã bắn rơi 10 máy bay, bắt sống
giặc lái, làm thất bại thủ đoạn dùng bom tinh khôn để phá hủy nhà máy
điện, giữ vững sản xuất và trật tự trị an, giao thông công cộng. Đây là
chiến công lớn của quân và dân Thủ đô, món quà mừng sinh nhật lần thứ 77
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện quân tăng cường cho chiến trường miền
Nam với khối lượng lớn và chất lượng cao, tháng 8/1967 Bộ Tư lệnh Thủ đô
quyết định thành lập Đoàn 1867, sau đó chuyển thành Trung đoàn 59 với
biên chế khung hoàn thiện hơn. Do thất bại trên các chiến trường, ngày
31/3/1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ vĩ
tuyến 20 trở ra và đề nghị thương lượng với chính phủ ta. Trên thế thắng
và với thái độ thiện chí, phái đoàn ta đã đến Pari đàm phán với phía
Mỹ.
Sau
Tết Mậu Thân, công tác động viên, tuyển quân trở thành nhiệm vụ lớn
nhất trong công tác quân sự địa phương Toàn thành phố đã xây dựng được
107 đội dự bị động viên. Từ tháng 8/1967, trước yêu cầu khẩn trương về
lực lượng của tiền tuyến lớn, Bộ Tư lệnh Thủ đô còn được giao nhiệm vụ
trực tiếp xây dựng và huấn luyện quân tăng cường cho miền Nam. Đầu tháng
8/1968, 5 tiểu đoàn quân tăng cường lần lượt lên đường, kịp thời bổ
sung lực lượng chiến đấu cho chiến trường miền Nam. Trong 6 tháng cuối
năm, Hà Nội tiếp tục huấn luyện 7 tiểu đoàn.
Để
cứu vãn nguy cơ phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, chính
quyền Nichxơn chủ trương “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Đế quốc Mỹ đã mở chiến dịch Linebacker I, đánh phá miền Bắc bằng không
quân và hải quân. Trong hơn 6 tháng quân và dân Hà Nội đã đánh 28 trận
vừa và nhỏ, bắn rơi 63 máy bay địch, bắt nhiều giặc lái. Riêng dân quân,
tự vệ bắn rơi 5 máy bay.
Tháng
12/1972, tại Hội nghị Pari, Tổng thống Mỹ Níchxơn lật lọng, cho ngừng
đàm phán ở Pari từ ngày 13/12/1972. Ngày 14/12, Tổng thống Mỹ Níchxơn
phê chuẩn kế hoạch của cuộc tập kích chiến lược mang mật danh Linebacker
II, đánh phá ồ ạt bằng không quân chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng.
Trong
12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, trên địa bàn Hà Nội, đế quốc Mỹ đã huy
động tối đa sức mạnh không lực Hoa Kỳ đánh phá hủy diệt Hà Nội. chúng sử
dụng 444 lần chiếc B-52, hơn 1.000 lần chiếc máy bay chiến thuật, trong
đó có hàng trăm lần chiếc F-111, ném khoảng 10.000 tấn bom, đạn xuống 4
thị trấn, 39 đoạn phố, 67 xã và 4 khu vực đông dân.
Không
khuất phục, quân, dân Hà Nội đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng phòng
không, không quân quốc gia kiên cường, dũng cảm chiến đấu bắn rơi 32 máy
bay, trong đó có 25 chiếc máy bay B-52, 2 máy bay F-111 và 5 máy bay
chiến thuật. Chiến thắng của quân dân Hà Nội đã làm nên một “Điện Biên
Phủ trên không”, tiêu tan sức mạnh không lực Hoa Kỳ. Hà Nội không trở về
“thời kỳ đồ đá” mà trở thành “Thủ đô phẩm giá của con người”, buộc đế
quốc Mỹ ký kết Hiệp định Pari “Về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở
Việt Nam”. Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; quân Mỹ và quân chư hầu buộc phải rút
hết khỏi miền Nam.
Đáp
ứng yêu cầu của chiến trường, năm 1973, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã tổ chức 3
đợt động viên tuyển quân với 4.563 thanh niên nhập ngũ. Trên 4.000 chiến
sĩ mới được biên chế thành 7 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 59, làm nhiệm
vụ xây dựng quân tăng cường chi viện chiến trường.
Cùng
với nhiệm vụ chi viện miền Nam, quân và dân Thủ đô còn hoàn thành tốt
nhiệm vụ quốc tế. Trong quý 4/1973, quân dân Thủ đô đã đón tiếp, đưa
tiễn 1.597 cán bộ, chiến sĩ cách mạng Lào, bốc xếp giúp bạn 1.386 tấn
lương thực hàng hóa trên 230 chuyến máy bay vận tải quân sự, đáp ứng kịp
thời việc chuẩn bị lực lượng và hàng hóa vào hai thành phố Viêng Chăn
và Luông Pra Băng theo hiệp định lập lại hòa bình, hòa hợp dân tộc ở
Lào.
Trước
tình hình chiến trường miền Nam có những chuyển biến ngày càng có lợi
cho ta, ngày 30/9/1974, Bộ Chính trị họp, hạ quyết tâm chiến lược giải
phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976.
Trong
năm 1974, đầu năm 1975 các tiểu đoàn quân tăng cường của Hà Nội lần
lượt lên đường bổ sung cho các chiến trường, chi viện cho công cuộc giải
phóng miền Nam 8.212 thanh niên, trong đó có trên 1.300 cán bộ chuyên
môn, kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân, 170 y sĩ, bác sĩ được điều
động vào quân đội, phục vụ chiến trường.
Trong
suốt thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của Không quân Mỹ, các lực
lượng vũ trang bảo vệ Thủ đô đã bắn rơi 358 máy bay các loại, trong đó
có nhiều máy bay B-52, F-111 và nhiều loại máy bay hiện đại khác. Riêng
dân quân tự vệ Thủ đô đã bắn rơi 8 máy bay địch. Bằng hành động chiến
đấu mưu trí, dũng cảm, lưới lửa tầm thấp của lực lượng vũ trang Thủ đô
góp phần hình thành thế trận phòng không nhân dân hiệu quả, hỗ trợ và
tạo điều kiện cho các lực lượng khác bắn rơi nhiều máy bay địch, hoàn
thành vẻ vang nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô.
Từ
năm 1965 đến 1975, Bộ Tư lệnh Thủ đô đã tổ chức 29 đợt động viên tuyển
quân, với hơn 89.000 thanh niên lên đường chiến đấu. Bộ Tư lệnh Thủ đô
đã trực tiếp tổ chức huấn luyện, đưa 42 tiểu đoàn quân tăng cường cho
chiến trường miền Nam, Nhiều đơn vị, nhiều cán bộ, chiến sĩ vào chiến
trường đã lập công xuất sắc, trong đó có 14 Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân, 1.781 người được tặng thưởng danh hiệu dũng sĩ, được tặng
14.846 huân chương các loại. Hơn 11.000 đồng chí đã hy sinh anh dũng
trên các chiến trường.
Tháng
4/1965, Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội ra Quyết định hợp nhất tỉnh Hà Đông
và Sơn Tây thành đơn vị hành chính mới lấy tên là tỉnh Hà Tây. Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang Hà Tây thuộc
Quân khu Hữu Ngạn. Tuy nhiên, do vị trí địa lý và bề dày lịch sử văn hóa
truyền thống, nên lực lượng vũ trang Hà Tây luôn gắn bó, quan hệ mật
thiết với lực lượng vũ trang Hà Nội nói riêng và Thủ đô Hà Nội nói
chung. Trong chiến đấu, lực lượng vũ trang Hà Tây tạo nên “vòng cung
lửa” ngăn chặn không quân Mỹ đánh phá Hà Nội, bảo vệ các mục tiêu trọng
yếu, bắn rơi 83 máy bay, bắt sống nhiều phi công Mỹ. Trong 12 ngày đêm
“Điện Biên Phủ trên không”, lực lượng vũ trang Hà Tây đã bắn rơi hàng
chục máy bay Mỹ, trong đó có 01 máy bay B-52 và 01 máy bay F-111.
Cùng
với hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, quân dân Hà Tây hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ chi viện sức người sức của cho chiến trường miền Nam. Hà Tây là
quê hương của phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu
một người”, quê hương “Chiếc gậy trường sơn” biểu tượng của phong trào
sẵn sàng tòng quân giết giặc của thanh niên miền Bắc. Từ năm 1965 đến
năm 1975, Hà Tây thực hiện 32 đợt tuyển quân, với tổng số 174.000 người.
Trung đoàn 12 của tỉnh đã đã huấn luyện 77 tiểu đoàn tăng cường chi
viện cho chiến trường miền Nam.
Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN
Những
năm 1976 đến năm 1986, lực lượng vũ trang (LLVT) Thủ đô vượt qua mọi
khó khăn, từng bước trưởng thành, cùng các tầng lớp nhân dân bảo vệ,
kiến thiết xây dựng Thủ đô xứng đáng là trung tâm đầu não chính trị,
hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh
tế và giao dịch quốc tế của cả nước.
LLVT Thủ đô Hà Nội trong những năm đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1976 - 1986)
Từ
năm 1976 đến tháng 02/1979, LLVT Thủ đô vừa củng cố xây dựng lực lượng,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô trong điều kiện, hoàn cảnh mới,
vừa cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô khôi phục phát triển kinh tế, khắc
phục hậu quả chiến tranh và huấn luyện nâng cao trình độ, khả năng sẵn
sàng chiến đấu, xây dựng thế trận bảo vệ Thủ đô, rà phá bom, mìn, khắc
phục hậu quả chiến tranh. Tháng 02/1979, đáp ứng yêu cầu tăng cường lực
lượng chiến đấu bảo vệ biên giới, 4 huyện ngoại thành Hà Nội (Từ Liêm,
Đông Anh, Gia Lâm, Thanh trì) đã kịp thời thành lập tiểu đoàn địa
phương, tăng cường lực lượng cho các mặt trận, trong đó Tiểu đoàn địa
phương huyện Đông Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, ngày 05/3/1979, Bộ Chính trị ra
Quyết định số 35/QĐ-TW, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký Sắc lệnh số 28/LCT thành lập Quân khu Thủ đô Hà Nội (trên cơ sở Bộ
Tư lệnh Thủ đô). Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên được bổ nhiệm làm Tư lệnh
kiêm Chính ủy Quân khu; Thiếu tướng Lư Giang làm Phó Tư lệnh.
Đặc
trưng nổi bật nhất của Quân khu Thủ đô là đảm nhiệm trên hướng chủ yếu
của quốc gia trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn chiến lược đặc
biệt quan trọng đó là thành phố Hà Nội, nhưng phạm vi phòng thủ và tác
chiến được mở rộng ra một số địa phương xung quanh thuộc địa bàn quân
khu bạn.
Bộ
Tư lệnh Quân khu, các cơ quan Bộ Tư lệnh, các nhà trường và các đơn vị
chủ lực nhanh chóng được tổ chức xây dựng đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến
đấu bảo vệ Thủ đô trong mọi tình huống. Trong thời gian ngắn, các tầng
lớp nhân dân Thủ đô hăng hái tham gia xây dựng công trình chiến đấu bảo
vệ Thủ đô, góp hàng chục vạn công, đào đắp hàng chục vạn mét khối đất,
đá, vượt định mức bình quân mỗi lao động 32,4%, vượt khối lượng đào đắp
hơn 67.000 m3, tiết kiệm gần 17.000 công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;
đồng thời, LLVT Thủ đô còn hoàn thành nhiệm vụ chi viện lực lượng làm
đ-ường cho Quân khu 2 trên mặt trận Hà Tuyên. Năm 1986, Quân khu Thủ đô
cải tạo mặt đường Khuổi Mại - Phin Sang dài 7 km và mở mới mạng đường
ngang nối từ Hang Hòn đi Khau Dù dài 12 km, hoàn thành trước thời hạn 34
ngày.
Kết
quả xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận và thực hiện các nhiệm vụ
trong giai đoạn 1975 - 1986 đã góp phần quan trọng cùng các tầng lớp
nhân dân Hà Nội bảo vệ, xây dựng, kiến thiết Thủ đô ngày càng giàu đẹp
và làm thất bại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của thế lực thù địch.
LLVT thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đầu thực hiện đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1987 - 2000)
Trong
giai đoạn 1987 - 2000, Thủ đô Hà Nội cùng cả nước tiến hành sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với những khó khăn, thử thách. Chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch tiến hành chiến l-ược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ, chống phá quyết liệt phong trào cách mạng thế giới. Cách mạng Việt
Nam một lần nữa phải đối mặt với những khó khăn hết sức gay gắt. Nghị
quyết Đại hội VI xác định: “Trong giai đoạn mới phải xây dựng quân đội
chính quy, ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có
tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ
sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu cao… Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo
đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”.
Quán
triệt Nghị quyết Đại hội VI, LLVT Thủ đô kiên định, vững vàng, đoàn
kết, sáng tạo vượt mọi khó khăn, góp phần làm thất bại các âm mưu và thủ
đoạn thâm độc của kẻ thù, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, tạo thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới
đất nước và Thủ đô giành được nhiều thắng lợi. Từ năm 1996 đến năm 2000,
LLVT Thủ đô Hà Nội tập trung xây dựng theo hướng cách mạng chính qui,
tinh nhuệ từng bước hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc; góp phần thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội, tạo
tiền đề cho phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI. Đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô Hà Nội, ngày 18/8/1999, Bộ Quốc
phòng đã ra Quyết định số 1285/QĐ-QP chuyển giao Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh
Hà Tây từ Quân khu 3 về trực thuộc Quân khu Thủ đô; ngày 20/8/1999, Bộ
Quốc phòng tiếp tục ra Quyết định số 1307/QĐ-QP thành lập Bộ Chỉ huy
Quân sự thành phố Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô.
Đảng
ủy Quân khu Thủ đô tập trung lãnh đạo ổn định tổ chức biên chế, kiện
toàn tổ chức chỉ huy, tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng, từng bước đưa
các hoạt động của cơ quan, đơn vị vào nền nếp, xác định rõ nhiệm vụ của
Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Hà Nội và bổ sung nhiệm vụ Bộ Chỉ huy Quân
sự tỉnh Hà Tây.
Nâng
cao sức mạnh chiến đấu, xây dựng nền quốc phòng địa phương vững mạnh,
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc (2001 - 2007)
Bước
sang thế kỷ XXI, khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển như vũ bão,
tác động vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Hòa bình, hữu nghị, hợp tác,
cùng phát triển là nhu cầu và là xu hướng chung của mọi quốc gia dân
tộc. Tuy nhiên, với bản chất hiếu chiến, phản cách mạng, chủ nghĩa đế
quốc dùng mọi thủ đoạn hòng biến quá trình toàn cầu hóa thành quá trình
tư bản hóa toàn cầu. Chúng thực thi các chính sách nhằm áp đặt giá trị
tư bản đối với mọi quốc gia dân tộc, lôi kéo nhiều nước tham gia vào các
cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Những hành động đi ngược xu thế và
lợi ích chung đã gây nên các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo liên tục
diễn ra. Nạn khủng bố đã và đang là mối đe dọa, thách thức lớn đối với
tất cả các nước.
Sau
5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và 15 năm thực
hiện đường lối đổi mới đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh
vực: chính trị - kinh tế - văn hóa, xã hội ổn định và phát triển, vị thế
Việt Nam ngày càng tăng trên trường quốc tế. Cách mạng Việt Nam có thế
và lực mới, tuy nhiên, còn đang đứng trước những nguy cơ, thách thức
lớn.
Quán
triệt quan điểm, đường lối, phướng hướng, nhiệm vụ quốc phòng an ninh
trong tình hình mới, LLVT Thủ đô tiếp tục xây dựng lực lượng bộ đội
thường trực cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; lực
lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, có
bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống lành
mạnh; nâng cao kiến thức toàn diện; trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức
chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ địa bàn Quân khu; xây dựng nền
quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân,
xây dựng khu vực phòng thủ, tỉnh, thành phố vững chắc; bảo đảm hậu cần,
kỹ thuật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, chất lượng tốt cho các nhiệm vụ, góp
phần đánh bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch.
Đảng
bộ Quân khu tập trung xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu
của các cấp ủy, tổ chức Đảng; xây dựng các cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng
trong sạch vững mạnh, đạt độ vững chắc; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp
đủ số lượng, chất lượng cao. Nhiều nội dung công tác quốc phòng, quân sự
địa phương đi đầu toàn quốc và khu vực: Đào tạo thí điểm Chỉ huy trưởng
quân sự xã, phường, thị trấn với 9 khoá cho 1.006 đồng chí; đào tạo 766
sỹ quan dự bị; 183 giáo viên dạy môn giáo dục quốc phòng và xây dựng
công trình phòng thủ bằng ngân sách địa phương. Quy hoạch thế trận quân
sự khu vực tỉnh... Kết quả thực hiện nhiệm vụ trên các mặt công tác của
LLVT Thủ đô góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế xã hội trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội.
LLVT Thủ đô Hà Nội đổi mới toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Thủ đô trong thời kỳ mới
Đáp
ứng yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói
chung, xây dựng bảo vệ Thủ đô Hà Nội nói riêng, tại kỳ họp thứ 3 Quốc
hội khóa XII, ngày 29/5/2008, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 15 quyết định mở rộng địa giới hành
chính Hà Nội. Theo đó, địa giới hành chính của Thủ đô Hà Nội gồm toàn bộ
diện tích tự nhiên của thành phố Hà Nội, diện tích tự nhiên của tỉnh Hà
Tây, diện tích tự nhiên của huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và diện
tích tự nhiên của 4 xã (xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung)
thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Từ ngày 01/8/2008, Thủ đô Hà Nội
mới có diện tích tự nhiên 3.344,47 km vuông; dân số: 6.232.940 người
(hiện nay dân số Hà Nội hơn 6,4 triệu người); Đơn vị hành chính cấp
quận, huyện gồm 29 đơn vị: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng,
Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Từ Liêm, Hoàng Mai, Thanh Trì, Long Biên,
Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Hà Đông, Sơn Tây, Thường Tín, Phú Xuyên, Mỹ
Đức, Ứng Hòa, Thanh Oai, Chương Mỹ, Quốc Oai, Hoài Đức, Đan Phượng, Phúc
Thọ, Thạch Thất, Ba Vì, Mê Linh.
Trong
tiến trình thực hiện Nghị quyết số 15 của Quốc hội khóa XII ngày
16/7/2008, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký Lệnh số 16/2008/L-CTN
về tổ chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Ngày
25/7/2008, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 2192/QĐ-BQP,
2194/QĐ-BQP hợp nhất Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tây, Bộ Chỉ huy Quân sự
thành phố Hà Nội thuộc Quân khu Thủ đô Hà Nội vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà
Nội; Quyết định 2196/QĐ-QP sát nhập Ban Chỉ huy Quân sự huyện Mê Linh
thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Vĩnh Phúc/Quân khu 2 vào Bộ Tư lệnh Thủ đô
Hà Nội.
Bộ
Tư lệnh Thủ đô Hà Nội là đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, chịu sự quản
lý, chỉ huy của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội có
chức năng tham mưu cho Đảng bộ và chính quyền thành phố Hà Nội thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác quân sự địa phương; giúp Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội thực
hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực quân sự, quốc phòng tại địa phương; tổ
chức thực hiện xây dựng quản lý chỉ huy các đơn vị lực lượng thường
trực và lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ thuộc quyền.
Thực
hiện quyết định của Bộ Quốc phòng, ngày 28/7/2008, Bộ Tư lệnh Quân khu
Thủ đô bàn giao cho Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Đại tá Phí Quốc Tuấn, Chỉ
huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tây, được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Đại tá Phùng Đình Thảo, Chủ nhiệm Chính trị
Quân khu Thủ đô, được bổ nhiệm chức vụ Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội
và thăng quân hàm Thiếu tướng. Ngày 30/7/2008, tại Hội trường Quân khu
Thủ đô, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ Trưởng Bộ
Quốc phòng công bố Lệnh số 16 ngày 16/7/2008 của Chủ tịch nước về tổ
chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và trân trọng
trao Quân kỳ Quyết thắng cho Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội. Ngày 26/8/2008,
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội tổ chức lễ công bố thành lập Đảng bộ Bộ Tư lệnh
Thủ đô Hà Nội trực thuộc Thành ủy Hà Nội. Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Tư
lệnh Thủ đô Hà Nội gồm 15 đồng chí; đồng chí Phạm Quang Nghị, Bí thư
Thành ủy Hà Nội được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy; Thiếu tướng Phùng Đình
Thảo, Chính ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Đại tá Phí Quốc Tuấn, Tư
lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội được chỉ định làm Phó Bí thư Đảng ủy.
Nhận
thức sâu sắc chức năng, nhiệm vụ của mình; với tinh thần đổi mới, sáng
tạo và quyết tâm cao, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã quán triệt, thực hiện
nghiêm túc Lệnh số 16/2008/L-CTN của Chủ tịch nước và các chủ trương,
Quyết định của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu,
của Thành ủy, UBND thành phố Hà Nội. Nhanh chóng ổn định tổ chức biên
chế các cơ quan, đơn vị theo hướng tăng cường cho cơ sở, bảo đảm quân số
cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Tích cực, chủ động tham
mưu với Thành ủy, UBND thành phố lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng,
quân sự địa phương sau khi thành phố được mở rộng địa giới hành chính.
LLVT
Thủ đô luôn kiên định, vững vàng, duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng
chiến đấu, nắm chắc tình hình; phối hợp với công an Thành phố và các lực
lượng bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị quan trọng trên
địa bàn Thủ đô. Đặc biệt là các hoạt động Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long - Hà Nội (năm 2010); Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2010 - 2015; Bầu
cử Quốc hội khoá XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 -
2016; các Hội nghị quốc tế do Việt Nam chủ trì, đăng cai; kịp thời tham
mưu, đề xuất biện pháp xử lý hiệu quả các vụ việc phức tạp về tôn giáo,
an ninh trật tự đúng chức năng, nhiệm vụ. Chủ động, tích cực tham mưu
với Thành uỷ, UBND Thành phố lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm vụ quốc phòng, quân
sự địa phương; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng; tăng
cường công tác giáo dục quốc phòng - an ninh cho cán bộ, đảng viên và
các đối tượng; phát huy vai trò các đơn vị quân đội đóng quân trên địa
bàn trong bảo vệ an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội ở Thủ đô;
phòng chống lụt bão - tìm kiếm cứu nạn, xây dựng địa bàn an toàn gắn với
đơn vị an toàn, cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Thực hiện chính
sách hậu phương quân đội, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
mới ban hành.
Luôn
chủ động, huy động lực lượng, phương tiện tham gia tích cực, hiệu quả
cao việc cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai và dập tắt hàng
chục vụ hoả hoạn, cháy rừng trên trên địa bàn, góp phần giữ vững an ninh
chính trị - trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt trong trận mưa lũ lịch sử
trên địa bàn cuối tháng 10/2008, đã phối hợp với các lực lượng đóng quân
trên địa bàn, huy động 83.000 lượt cán bộ, chiến sỹ thường trực và dân
quân tự vệ, hàng trăm tàu xuồng, thuyền, ô tô, cầu phà ứng cứu, khắc
phục hậu quả, cứu hộ, cứu nạn, sơ tán trên 17.450 hộ dân, bảo vệ an toàn
28.105 km đê và trạm bơm Yên Sở, có ý nghĩa quyết định đến việc giải
quyết lụt, úng của Thành phố.
Coi
trọng nâng cao chất lượng xây dựng LLVT Thủ đô; kiên quyết duy trì thực
hiện nền nếp chính quy, điều lệnh, điều lệ, các quy định của Bộ Quốc
phòng. Công tác xây dựng, huấn luyện lực lượng thường trực, dân quân tự
vệ, dự bị động viên, công tác đào tạo dạy nghề đạt những tiến bộ mới,
giành nhiều thành tích cao trong hội thi, hội thao toàn quân; có những
biện pháp mới nâng cao chất lượng công tác quân sự ở cơ sở xã, phường,
thị trấn. Tăng cường phối hợp thực hiện công tác giáo dục quốc phòng-an
ninh cho cán bộ, đảng viên và các đối tượng; phối hợp thực hiện tốt
nhiệm vụ với các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn.
Chú
trọng công tác Đảng, công tác chính trị; làm tốt công tác giáo dục
chính trị tư tưởng sát với nhiệm vụ chính trị của LLVT Thủ đô, công tác
bảo vệ chính trị nội bộ, công tác kiểm tra, công tác dân vận và phối hợp
thực hiện tốt các chế độ chính sách, nhất là thực hiện Quyết định 290;
Quyết định 142 của Thủ tướng Chính phủ, chi trả cho gần 115.000 đối
tượng với số tiền trên 432 tỉ đồng, không sai sót. Công tác hậu cần, tài
chính, kỹ thuật đã bám sát, phục vụ tốt các nhiệm vụ; đời sống vật
chất, tinh thần của bộ đội được giữ vững và có phần cải thiện. Kết quả
các mặt hoạt động công tác của LLVT Thủ đô góp phần cùng các tầng lớp
nhân dân Thủ đô tạo nên những dấu ấn không thể nhạt phai trong tâm khảm
nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế về hình ảnh 1000 năm Thăng Long - Hà
Nội.