Bài học về phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của toàn dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc

10:17 | 31/08/2018

(Bqp.vn) - Trong nửa cuối thế kỷ XIX và giữa thế kỷ XX, dân tộc ta phải hai lần kháng chiến chống thực dân Pháp. Hai cuộc kháng chiến chống lại đội quân thực dân xâm lược đã để lại bài học lịch sử sâu sắc về phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên phát biểu tại Hội thảo khoa học “Phong trào kháng Pháp xâm lược nửa cuối thế kỷ XIX - Bài học cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, ngày 31/8.

Đầu tháng 9/1858, thực dân Pháp nổ súng tiến công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với họa xâm lược từ một nước phương Tây, có phương thức sản xuất vượt trội, hoàn toàn chiếm ưu thế về vũ khí, công nghệ quân sự. Trong gần 30 năm, quân Pháp lần lượt đánh chiếm Nam Kỳ, Bắc Kỳ rồi tiến công vào Kinh đô Huế (1883), buộc triều đình nhà Nguyễn từng bước phải nhượng bộ, lần lượt ký các hiệp ước Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Quý Mùi (1883) và cuối cùng là Hiệp ước Giáp Thân (1884), thừa nhận nền thống trị của thực dân Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Từ nhà nước phong kiến độc lập, triều đình Huế trở thành chính quyền bù nhìn, tay sai cho ngoại bang.

Mặc dù, thực dân Pháp khuất phục được triều đình nhà Nguyễn, nhưng không thể đè bẹp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, nhân dân ta từ Nam tới Bắc đã anh dũng chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước, khiến cho thực dân Pháp phải mất gần 40 năm (1858 - 1896) mới cơ bản bình định và đặt được bộ máy cai trị trên đất nước ta, nhưng phải trả giá đắt, buộc phải thừa nhận “Cuộc chiến tranh ở nước này còn khó hơn cuộc chiến tranh chống vương quốc Trung Hoa” [1].

Trong gần 40 năm đó, ở thời kỳ đầu, nhân dân Việt Nam phối hợp với quân đội triều đình chiến đấu chống quân xâm lược Pháp ở những nơi chúng đánh chiếm, như Đà Nẵng (1858), Gia Định (1859 - 1860), Hà Nội và các tỉnh Đồng bằng Bắc bộ trong những năm (1873 - 1874) và (1882 - 1884). Đồng thời, xuất hiện các cuộc nổi dậy chống quân xâm lược ở các vùng địch chiếm đóng, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân... Các cuộc khởi nghĩa đó đã thể hiện tinh thần ái quốc, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập, tự do của đất nước.

Ký kết Hiệp ước Giáp Thân (1884) đã đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của triều đình nhà Nguyễn trước sự xâm lăng của thực dân Pháp, nhưng phong trào đấu tranh chống quân xâm lược nhân dân ta lại bước sang giai đoạn mới, với quy mô rộng lớn và khí thế mạnh mẽ hơn. Đó là phong trào Cần Vương do các văn thân, sĩ phu yêu nước lãnh đạo, đã diễn ra sôi nổi trong cả nước và kéo dài hơn 10 năm từ 1885 đến 1896. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu Hương Khê (1885 - 1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo; Ba Đình (1886 - 1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng đứng đầu; Bãi Sậy (1885 - 1889) do Nguyễn Thiên Thuật chỉ huy; cuộc nổi dậy ở Hưng Hóa (1885 - 1889) của Nguyễn Quang Bích và cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 - 1913)… Những cuộc khởi nghĩa đó đã thu hút đông đảo lực lượng tham gia; tận dụng điều kiện địa lý hiểm yếu, áp dụng chiến thuật du kích để đối phó với lực lượng mạnh hơn của thực dân Pháp và tay sai, lập nên những chiến công oanh liệt, tạc vào lịch sử dân tộc những bản hùng ca chói lọi về tinh thần bất khuất, hy sinh. Mặc dù giành được một số thắng lợi, nhưng những cuộc chiến đấu của quân đội triều đình đến các cuộc khởi nghĩa của nhân dân đều bị dập tắt. Nguyên nhân bao trùm là do triều Nguyễn không thể đại diện, dẫn dắt dân tộc đứng lên chống lại sự xâm lăng của thực dân Pháp; các văn thân, sĩ phu hay các lãnh tụ nông dân với lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc nhưng không vượt qua hạn chế của giai cấp và thời đại nên chưa thể phát huy hết sức mạnh của dân tộc, chưa khai thác triệt để sự ủng hộ của nhân dân. Các cuộc khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, lúc bùng lên nơi này, lúc rộ lên nơi khác, thiếu một sự liên kết chung, có quy mô trong cả nước, nên dù hết sức oanh liệt nhưng không đi đến thành công, mà “chỉ có thể dấy lên rồi tắt, chính vì thiếu lực lượng lãnh đạo đủ năng lực” [2]. Thực dân Pháp đã hoàn toàn bình định được đất nước Việt Nam, bắt tay vào thực hiện chương trình khai thác thuộc địa.

Thất bại của triều Nguyễn cũng như của các cuộc khởi nghĩa yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX đã bộ lộ rõ sự lỗi thời, bất lực của ý thức hệ phong kiến; cũng như tình trạng khủng hoảng lãnh đạo, thiếu đường lối dẫn dắt để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đây chính là bài học sâu sắc về vai trò lãnh đạo, về huy động sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp đấu tranh giữ nước.

Phải đến khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc và thành lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam mới thực sự chấm dứt sự khủng hoảng đường lối cứu nước kéo dài hàng chục năm. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã vùng lên đấu tranh, tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

Tuy vậy, với bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc Pháp rắp tâm đưa dân tộc ta trở lại vòng nô lệ, tước đoạt thành quả mà phải bao tranh đấu, hy sinh dân tộc ta mới giành lại được. Sau hơn 80 năm, trên đất nước Việt Nam lại tiếp diễn cuộc đụng đầu giữa nhân dân ta và đế quốc Pháp. Tuy nhiên, khác với cuộc kháng Pháp nửa cuối thế kỷ XIX, trong cuộc chiến đấu này, cả dân tộc Việt Nam đã được hồi sinh, tràn đầy khí thế cách mạng. Nhân dân Việt Nam không chỉ có lòng yêu nước mà còn có một Đảng cách mạng tiên phong, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, được trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, được Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Chính vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng tái xâm lược Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến, quyết bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước Việt Nam.

Với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, thực hiện đường lối “kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài”, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cả dân tộc bước vào cuộc trường chinh máu lửa, ngăn chặn địch ở miền Nam, tiến hành hòa hoãn, phân hóa kẻ thù, củng cố lực lượng, đưa cả nước bước vào cuộc tranh đấu lâu dài với niềm tin tất thắng: “dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta” [3].

Qua chín năm (1945 - 1954), vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa chiến đấu vừa xây dựng, củng cố thực lực, quân và dân ta không ngừng phát triển thế tiến công, càng đánh càng mạnh, giành những thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947), Biên giới (1950), Hòa Bình (1951), Đông Xuân (1951 - 1952), Tây Bắc (1952) và cuối cùng là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, làm nên thắng lợi “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Để có được thành công đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy lòng yêu nước, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của toàn dân tộc. Thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, xuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước” [4], toàn dân tộc đã nhất tề đứng dậy, tạo thành sức mạnh vô song chống lại quân xâm lược. Đây là nét tiêu biểu về tinh thần tự lực tự cường, là bước tiếp nối truyền thống “trăm họ là binh, toàn dân là lính”, tất cả nhân dân đều trên trận tuyến chống ngoại xâm. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy và phát huy truyền thống đó trên cơ sở tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân - sức mạnh được bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, anh dũng chống ngoại xâm.

Với đường lối kháng chiến: toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, Đảng xác định sự nghiệp kháng chiến là sự nghiệp của toàn dân, sức mạnh của kháng chiến là sức mạnh của nhân dân, việc tǎng cường lực lượng kháng chiến chính là tăng cường sức dân, trong đó công nông là gốc. Cuộc kháng chiến chỉ giành thắng lợi khi việc tham gia kháng chiến đã trở thành hành động tự giác của nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều quan trọng trong việc tổ chức toàn dân đánh giặc là phải xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu. Đó chính là quần chúng nhân dân được giác ngộ chính trị, đã hiểu rõ mục đích và đường lối kháng chiến của Đảng; tham gia kháng chiến có tổ chức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đó là cơ sở vững chắc để phát động cuộc chiến tranh nhân dân chống lại quân xâm lược. Chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc, nhưng phải có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, là lực lượng chủ yếu đánh bại lực lượng vũ trang của địch, đè bẹp ý chí xâm lược của chúng, nên Đảng chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh. Vậy nên, “lúc bắt đầu kháng chiến, quân đội ta là quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt” [5];  trải qua quá trình kháng chiến, đội quân đó ngày càng được phát triển, hình thành nên những đội quân chủ lực, làm tròn trách nhiệm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Xây dựng và phát huy vai trò lực lượng vũ trang cách mạng đã góp phần quan trọng để làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Với đường lối đúng đắn, sáng tạo ấy, Đảng ta đã giải quyết thành công một loạt vấn đề về chiến lược và sách lược, về hình thức và phương pháp đấu tranh của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chiến tranh toàn dân, đối phó có hiệu quả và đập tan mọi kế hoạch quân sự, các thủ đoạn chính trị, kẻ thù. “Việc định ra, quán triệt và thực hiện thắng lợi đường lối ấy chứng tỏ Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam” [6].

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, cũng như qua hai cuộc kháng Pháp nửa cuối thể kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX đã chứng minh: khi nào huy động được sức mạnh của nhân dân tham gia công cuộc giữ nước thì khi đó giang sơn bờ cõi được vẹn toàn; ngược lại, khi nào không thu phục được lòng dân, không phát huy được vai trò và huy động được sức mạnh toàn dân, thì khi ấy nước mất nhà tan, dân tộc rơi vào ách lầm than nô lệ. Nhưng ở giữa thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn đã không tập hợp được nhân dân, huy động sức mạnh của toàn dân tộc để tiến hành cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta vào nửa cuối thế kỷ XIX tuy đã tạo ra xung lực mạnh mẽ, nhưng đó cũng chỉ là những phong trào tự phát, thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất nên chưa thúc đẩy, động viên và khai thác triệt để sức mạnh của dân tộc. Đây là bài học sâu sắc từ cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất và được khắc phục khi toàn dân tộc bước vào cuộc chiến đấu chống lại cuộc xâm lăng lần hai của thực dân Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Việt Nam đã đoàn kết chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh để làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - thắng lợi của ý chí và quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, hòa bình của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với cuộc chiến đấu này, quân và dân ta đã chứng minh một dân tộc dù nhỏ nhưng với ý chí kiên cường, được sự lãnh đạo của một Đảng chân chính, tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa, với sự tham gia của toàn dân sẽ giành chiến thắng trước bất cứ kẻ thù nào.

Thực tiễn lịch sử cũng chứng minh, truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất là cốt cách, bản lĩnh của người Việt Nam, là sợi dây cốt lõi cố kết cộng đồng, tạo sức mạnh toàn dân tộc để chiến thắng các thế lực ngoại xâm. Tuy nhiên, để phát huy được sức mạnh ấy cần có đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức chỉ huy chặt chẽ, khoa học, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với xu thế thời đại. Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chúng ta cần ra sức xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự trong sạch vững mạnh, bài trừ tệ nạn tham nhũng, quan liêu trong bộ máy chính quyền, nhằm củng cố sức mạnh Nhà nước, tăng cường niềm tin của nhân dân. Xây dựng Nhà nước dân chủ, vững mạnh, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà toàn Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn. Để làm được điều đó, Nhà nước cần tiến hành cải cách hành chính; hoàn thiện hành lang pháp lý; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ đức, đủ tài; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao tiềm lực kinh tế; thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng, thế mạnh đất nước. Cùng với đó, Nhà nước cần có chiến lược tổng thể và các chính sách về việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực để tạo nên nguồn lực của toàn dân tộc phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

[1] - Bazancuount, Les Expe’ de Chine et de Cochinchine d’apre’s le documents officiels (Cuộc hành quân Trung Quốc và Nam Kỳ theo những tài liệu chính thức), Paris, 1861, tập 1, tr.352.

[2] - Phạm Văn Đồng, Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1959, tr.15

[3] - Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr.534

[4] - Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, 1945 - 1947, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr.160.

[5] - Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, 1951, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.24.

[6] - Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - Trực thuộc Bộ Chính trị, Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr.257.

File đính kèm:

Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ QUỐC PHÒNG NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Địa chỉ: Số 7, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
*Tel: +84-69.553215 * Email: info@mod.gov.vn
Website: bqp.vn, mod.gov.vn *
Tổng Biên tập: Đại tá Nguyễn Thanh Bình
Quyết định cho phép hoạt động: Số 3548/QÐ-BQP, ngày 25/9/2012
® Ghi rõ nguồn bqp.vn hoặc mod.gov.vn khi phát hành lại thông tin từ Cổng TTÐT BQP.