Web Content Viewer
Quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế giúp Lào trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(Bqp.vn) - Lịch sử đã gắn bó hai dân tộc Việt - Lào. Đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau là quy luật khách quan trong lịch sử tồn tại và phát triển của hai nước. Mối quan hệ mật thiết này đã được hai Đảng, hai Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản, các thế hệ lãnh đạo cũng như quân và dân hai nước chăm lo, dày công vun đắp, mà biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu Việt - Lào là những chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu, công tác trên đất nước bạn Lào.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (thứ ba từ trái sang), Hoàng thân Xu-pha-nu-vông (thứ tư từ trái sang) cùng các cán bộ Quân đội Việt - Lào bàn kế hoạch mở Chiến dịch Thượng Lào, năm 1953. (ảnh: tư liệu)
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, rồi mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương. Trước nguy cơ tồn vong của nền độc lập dân tộc ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra chỉ thị kháng chiến, kiến quốc, chủ trương thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào chống thực dân Pháp xâm lược.
Thực hiện chủ trương này, ngay từ đầu tháng 3/1948, Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam đã ra Chỉ thị 110/T.C.U về phương châm, phương hướng hoạt động cho các cấp chỉ huy và Bộ đội Việt Nam chiến đấu, công tác ở chiến trường Lào và Cam-pu-chia. Nội dung bản chỉ thị nêu rõ quan điểm, lập trường của Đảng ta là: Chúng ta đứng trên lập trường giúp nhân dân Lào và Miên giải phóng khỏi ách thực dân Pháp, cho nên: về chính trị, công việc vận động dân tộc Lào, Miên phải đi đến chỗ để cho anh em cán bộ Lào, Miên tự phụ trách. Về quân sự nên đi đến chỗ thành lập quân đội Lào - Việt, hay Miên - Việt; cán bộ ta sẽ hết sức giúp đỡ các đội quân ấy [1]; đồng thời, cử nhiều cán bộ và lực lượng sang giúp cách mạng Lào xây dựng cơ sở, tổ chức quần chúng và huấn luyện tác chiến.
Tiếp đó, ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: Các lực lượng quân sự Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện; tổ chức thành một lực lượng thống nhất, lấy tên là “Bộ đội tình nguyện Việt Nam” (còn gọi là Quân tình nguyện Việt Nam). Đây là một quyết định hết sức sáng suốt, bởi từ đó, quân tình nguyện Việt Nam có sự lãnh đạo, chỉ đạo một cách thống nhất và trực tiếp, làm cho việc giúp bạn hiệu quả hơn, tạo sức mạnh lớn hơn trong Liên quân Việt - Lào.
Quân tình nguyện Việt Nam đã có mặt trên đất Lào từ khi cách mạng Lào còn trong trứng nước - đó là những chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến hoạt động, xây dựng cơ sở cách mạng ở Sầm Nưa và nhiều đơn vị Tây Tiến khác tiếp tục được cử sang để giúp đỡ cách mạng Lào bảo toàn lực lượng, cũng như di chuyển về các vùng nông thôn, rừng núi, bám đất, bám dân xây dựng cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang quần chúng.
Quân tình nguyện Việt Nam giúp nông dân Lào gặt lúa tại Khu II, Thượng Lào, năm 1949. (ảnh: tư liệu)
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên đất nước Lào, từ những đơn vị hoạt động phân tán với quy mô tổ, đội, lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam đã nhanh chóng phát triển thành các đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn, thống nhất về lãnh đạo, chỉ huy trên phạm vi cả nước. Tiêu biểu là các Đoàn: 80, 81, 82, 83 hoạt động ở Thượng Lào; Đoàn 280 hoạt động ở Trung Lào và các đại đội, tiểu đoàn hoạt động ở Hạ Lào. Các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đã tham gia giúp đỡ các địa phương Lào xây dựng cơ sở kháng chiến một cách toàn diện, từ tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang đến tổ chức Đảng và chính quyền các cấp. Với sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam, ngày 20/1/1949, Quân đội giải phóng nhân dân Lào được thành lập, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang cách mạng Lào, góp phần tăng cường liên minh chiến đấu giữa quân đội hai nước Việt Nam và Lào.
Cùng với việc trực tiếp tham gia chiến đấu giúp Lào chống thực dân Pháp xâm lược, Quân tình nguyện Việt Nam còn giúp Bạn xây dựng cơ sở kháng chiến, phối hợp với lượng vũ trang cách mạng Lào ngày càng chặt chẽ, hiệu quả tạo ra thế và lực mới để mở các chiến dịch tiến công quy mô lớn. Trong đó, tiêu biểu là Chiến dịch Thượng Lào (trung tuần tháng 4/1953), chiến dịch đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân các bộ tộc Lào. Thắng lợi của chiến dịch góp phần giải phóng hoàn toàn tỉnh Sầm Nưa, tỉnh Phong Xa Lỳ và một phần tỉnh Xiêng Khoảng, cũng như tạo tiền đề cho hàng loạt các chiến dịch khác nổ ra ở ba miền Trung Lào, Hạ Lào và Thượng Lào, như: Chiến dịch Trung - Hạ Lào (từ ngày 21/12/1953 đến tháng 5/1954), Chiến dịch Thượng Lào (từ ngày 29/1 - 13/2/1954) giành thắng lợi.
Trong chiến cục Đông Xuân 1953 - 1954, Liên quân Việt - Lào cùng với nhân dân các bộ tộc Lào loại khỏi vòng chiến đấu 8.300 tên địch trên chiến trường Lào, giải phóng một vùng đất rộng lớn với 100.000 km2 [2], góp phần tạo điều kiện cho quân và dân Việt Nam kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (21/7/1954) về Đông Dương, công nhận độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia.
Theo các điều khoản được ký kết trong Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Lực lượng vũ trang cách mạng Lào chuyển về đứng chân ở hai tỉnh tập kết là Sầm Nưa (nay là Hủa Phăn) và Phong Xa Lỳ chờ giải pháp chính trị hiệp thương thông qua đàm phán giữa Quân giải phóng nhân dân Lào và Chính phủ Vương quốc Lào, để đến năm 1955 sẽ tổ tổng tuyển cử thành lập nhà nước Lào độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, theo chỉ thị của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp Lào cũng lần lượt rút về nước.
Như vậy, từ những ngày đầu cách mạng cho đến khi cách mạng Lào thành công, Quân tình nguyện Việt Nam đã nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, kề vai sát cánh với quân và dân các bộ tộc Lào anh em chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sẵn sàng hy sinh xương máu để thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả, vì hòa bình, độc lập của đất nước Lào. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những người chiến sỹ Quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần thắt chặt tình đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào, như lời dạy của Chủ tịnh Hồ Chí Minh: “Việt Lào, hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long” [3].
Nói về, tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào và những đóng góp của Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam, Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản khẳng định: “Trong mọi sự thành công của cách mạng Lào đều có sự đóng góp trực tiếp của cách mạng Việt Nam, trên mỗi chiến trường của Tổ quốc thân yêu của chúng tôi, đều có xương máu của các chiến sĩ quốc tế Việt Nam hòa lẫn với xương máu của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc Lào chúng tôi” [4].
Ngày nay, cách mạng hai nước Việt Nam, Lào đã chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ độc lập và phát triển của mỗi nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Sự lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước là yếu tố cơ bản bảo đảm cho mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu giữa quân đội hai nước không ngừng tăng cường và phát triển. Truyền thống đoàn kết đặc biệt và những bài học kinh nghiệm liên minh chiến đấu là di sản vô cùng quý báu sẽ được giữ gìn, phát huy trong điều kiện hiện nay, vì mục tiêu: Hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của mỗi nước trong khu vực và toàn thế giới.
Kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống, tri ân, tưởng nhớ sự đóng góp to lớn của quân và dân hai nước nói chung, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam nói riêng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, chống kẻ thù chung; đồng thời, giáo dục thế hệ trẻ hai nước tiếp tục góp phần thực hiện chủ trương xây dựng mối quan hệ hữu nghị đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững.
[1] Ban Tổng kết - Bộ Tổng tham mưu, Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, H, 1991, tr.244 - 245.
[2] Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân tình nguyện Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tại Lào (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, H, 2002, tr.330.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2001, tr.44.
[4] Cayxỏn Phômvihản, Xây dựng một nước Lào hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự Thật, H, 1978, tr.183 - 184.
File đính kèm:
Nội dung cùng chuyên mục
- Bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ báo chí cho phóng viên Lào
- Chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới CHDCND Lào thành công tốt đẹp
- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hội đàm, hội kiến với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội Lào
- Lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh chúc mừng Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
- “Tình nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”