Quân đội Lào Ít-xa-la - đội quân “bách chiến, bách thắng” của nhân dân các bộ tộc Lào

15:47 | 20/01/2015

(Bqp.vn) - Cách đây 66 năm, ngày 20/1/1949, chấp hành Chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, tại Đại hội Dân tộc ở khu căn cứ Xiềng Khọ, tỉnh Hủa Phăn, Quân đội Lào Ít-xa-la được thành lập. Đây là đội quân kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Lào. Qua thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, đội quân ấy đã “đạp bằng mọi gian lao thử thách”, từng bước được xây dựng, củng cố về mọi mặt, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, trở thành đội quân “bách chiến, bách thắng” của nhân dân các bộ tộc Lào.

Bộ đội Việt Nam và Pa-thét Lào trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. (ảnh tư liệu)

Sau khi ra đời, Quân đội Lào Ít-xa-la với lực lượng chủ yếu là con em nhân dân các bộ tộc Lào nhanh chóng trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, góp phần tạo ra bước phát triển vững chắc cho cách mạng, để đến tháng 8/1950, Mặt trận dân tộc thống nhất, tức Neo Lào Ít-xa-la và Chính phủ kháng chiến Lào được thành lập, mở ra một trang sử mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Lào.

Từ năm 1951 trở đi, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân các bộ tộc Lào có những thuận lợi mới nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Việc đế quốc Mỹ viện trợ trực tiếp cho thực dân Pháp xâm lược Lào và các nước Đông Dương đã đặt ra những yêu cầu mới đối với quân đội và nhân dân Lào. Trong bối cảnh ấy, được sự giúp đỡ của Quân đội nhân dân Việt Nam, trực tiếp là Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào [1], Quân đội Lào Ít-xa-la tiếp tục được củng cố, từng bước tạo lập thế trận chiến tranh nhân dân.

Năm 1953, sau 4 năm xây dựng và chiến đấu, Quân đội Lào Ít-xa-la có bước phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Nhằm nâng cao khả năng tác chiến và sẵn sàng chiến đấu cho quân đội, Chính phủ Kháng chiến Lào quyết định sử dụng phần lớn lực lượng Quân đội Lào Ít-xa-la phối hợp với Quân tình nguyện và bộ đội chủ lực Việt Nam giành thắng lợi quyết định. Theo đó, Quân đội Lào Ít-xa-la đã phối hợp chiến đấu hiệu quả với bộ đội chủ lực và Quân tình nguyện Việt Nam giành thắng lợi trong chiến dịch Thượng Lào, giải phóng Sầm Nưa (1953), chiến dịch Trung - Hạ Lào (1953 - 1954) và chiến dịch Thượng Lào, phá vỡ phòng tuyến sông Nậm U của địch (đầu năm 1954). Những thắng lợi trên không chỉ phản ánh sự lớn mạnh vượt bậc của cách mạng Lào, của Quân đội Lào Ít-xa-la, mà qua đó góp phần hỗ trợ đắc lực cho quân và dân Việt Nam tiến lên giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).

Thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ, đế quốc Mỹ nhanh chóng thế chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam và Lào thành thuộc địa kiểu mới, nhằm ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới. Nhận thấy âm mưu của đế quốc Mỹ đối với cách mạng Lào, trước khi ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954), Chính phủ Kháng chiến và Bộ Quốc phòng Lào xác định quyết tâm: “Bất kể tình huống nào, việc đẩy mạnh xây dựng Quân đội Lào Ít-xa-la là một nhiệm vụ hết sức cần thiết, là công tác trung tâm thứ nhất, phải tập trung lực lượng kiên trì thực hiện cho kỳ được” [2].

Để nhanh chóng xây dựng Quân đội Lào Ít-xa-la theo kịp sự phát triển của cách mạng, Bộ Quốc phòng Lào đã đề nghị Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam cử Đoàn cố vấn quân sự sang giúp xây dựng Quân đội Lào Ít-xa-la: Giúp chung ở Bộ Quốc phòng, giúp Trường Quân chính Com-ma-đăm đào tạo huấn luyện cán bộ và giúp xây dựng các tiểu đoàn chủ lực, các đại đội binh chủng phối thuộc. Với chủ trương đúng đắn đó, đến đầu năm 1955, Quân đội Lào Ít-xa-la được tổ chức, biên chế thành 9 tiểu đoàn bộ binh; 1 tiểu đoàn trợ chiến; 1 tiểu đoàn vận tải; 3 đại đội kỹ thuật trực thuộc Bộ (thông tin, quân báo, công binh); 1 trung đội bảo vệ cơ quan; 12 đại đội độc lập; 2 đội vũ trang tuyên truyền; 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần; Trường Quân chính Com-ma-đăm và hai cơ quan tỉnh đội Hủa Phăn và Phong Xa Lỳ.

Với điểm tựa vững chắc là sự phát triển của Quân đội Lào Ít-xa-la và phong trào cách mạng cả nước, sau một thời gian chuẩn bị, ngày 22/3/1955, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào được triệu tập. Đại hội thông qua báo cáo về xây dựng Đảng, nhất trí lấy tên là Đảng Nhân dân Lào; thông qua các chính sách cơ bản, Cương lĩnh chính trị trước mắt và Điều lệ Đảng. Đại hội bầu Ban Chỉ đạo Trung ương Đảng Nhân dân Lào (có tính chất như một Ban Chấp hành Trung ương). Đồng chí Cay Xỏn Phôm-vi-hản được cử làm Bí thư Ban Chỉ đạo Trung ương Đảng. Tháng 4/1955, Ban Chỉ đạo Trung ương Đảng Nhân dân Lào quyết định thành lập Đảng ủy Quân sự Trung ương, đồng chí Cay Xỏn Phôm-vi-hản được cử làm Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương và chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang Pa-thét Lào. Sự ra đời của Đảng Nhân dân Lào và Đảng ủy Quân sự Trung ương đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh của cách mạng Lào. Đó cũng là sự chuyển biến tất yếu cho bước phát triển nhảy vọt của cách mạng và Quân đội Pa-thét Lào [3] trong những giai đoạn tiếp theo.

Nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội Pa-thét Lào, từ ngày 20/30/7/1967, Hội nghị cán bộ quân chính toàn quân được triệu tập tại Sầm Nưa, tỉnh Hủa Phăn. Hội nghị quyết định đổi tên Quân đội Pa-thét Lào thành Quân đội giải phóng nhân dân Lào. Đồng chí Khăm Tày Xi-phăn-đon được cử làm Tư lệnh tối cao Quân đội giải phóng nhân dân Lào.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao, Quân đội giải phóng nhân dân Lào không ngừng phát triển, đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, tranh thủ tối đa sự ủng hộ, giúp đỡ của Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam, phối hợp chiến đấu giành thắng lợi trong chiến dịch Nặm Bạc (1968), Cánh đồng Chum (1969 - 1970), Mường Xủi (1969) đường 9 - Nam Lào (1971), chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (1972)… góp phần đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường”, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Viêng-chăn (2/1973) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Lào.

Chuyên gia Quân sự Việt Nam huấn luyện kỹ thuật sử dụng pháo 12 nòng cho đơn vị nữ pháo binh của Bộ đội Pa-thét (Lào), năm 1972. (ảnh tư liệu)

Phát huy thắng lợi, năm 1975, bằng sự kết hợp “ba đòn tiến công chiến lược” và “mũi đấu tranh pháp lý”, Quân đội giải phóng nhân dân Lào đã hỗ trợ kịp thời cho nhân dân các địa phương nổi dậy giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc. Ngày 2/12/1975, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ra đời, Quân đội giải phóng nhân dân Lào kết thúc một chặng đường đấu tranh đầy hy sinh gian khổ, bước vào một thời kỳ mới, cùng cả nước khắc phục hậu quả chiến tranh, chống sự phá hoại của các thế lực phản động, thù địch, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng thành công một nước Lào hòa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.

Tuy mới được thành lập ngày 2/12/1975, nhưng nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào sớm phải đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Đó là sự phá hoại và âm mưu lật đổ chính quyền của các lực lượng thù địch. Do vậy, nhiệm vụ quốc phòng trong giai đoạn này vẫn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

Trong bối cảnh đó, cùng với lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế - xã hội, Đảng Nhân dân cách mạng và Chính phủ Lào luôn chú trọng chăm lo, củng cố, xây dựng và phát triển khả năng quốc phòng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Ngày 16/12/1975, Trung đoàn bộ binh 201, đơn vị cấp trung đoàn đầu tiên của Quân giải phóng nhân dân Lào ra đời. Đây là bước phát triển mới về quy mô tổ chức đơn vị chiến đấu của Quân đội giải phóng nhân dân Lào. Những năm tiếp theo, ở các hướng từ Thượng, Trung, Hạ Lào đều thành lập các trung đoàn chủ lực và lập thêm nhiều tiểu đoàn binh chủng như pháo mặt đất, pháo phòng không, xe tăng, thiết giáp, công binh, đặc công và thông tin.

Về nhiệm vụ của Quân đội giải phóng nhân dân Lào giai đoạn mới, Hội nghị Quân ủy Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tháng 6/1978, xác định: “Hai nhiệm vụ chiến lược bảo vệ và xây dựng đất nước phải gắn chặt với nhau, trong khi thường xuyên nâng cao sẵn sàng chiến đấu ở mọi cấp, toàn quân phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, chú trọng xây dựng cả ba thứ quân một cách cân đối, có cơ cấu thích hợp, có chất lượng cao” [4].

Thực hiện kế hoạch xây dựng lực lượng, ngày 6/10/1981, Bộ Quốc phòng Lào quyết định thành lập Sư đoàn 2 - sư đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội giải phóng nhân dân Lào. Tiếp đó, Sư đoàn 3, Sư đoàn 1 cũng lần lượt ra đời. Cùng với việc coi trọng xây dựng và phát triển lực lượng bộ đội chủ lực, Bộ Quốc phòng Lào quan tâm tới xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích; đồng thời gấp rút củng cố và triển khai hệ thống nhà trường, các trung tâm tập huấn nhằm nâng cao chất lượng huấn luyện bộ đội. Đặc biệt, để phát huy bản chất tốt đẹp truyền thống của Quân đội giải phóng nhân dân Lào trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng quân đội trở thành quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại, ngày 16/7/1982, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã ký Sắc lệnh số 75/CTN, đổi tên Quân đội giải phóng nhân dân Lào thành Quân đội nhân dân Lào. Đây là một sự kiện quan trọng của Quân đội nhân dân Lào trên chặng đường xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ vươn lên thực hiện tốt mọi nhiệm vụ, xứng đáng với danh hiệu “Quân đội nhân dân”.

Từ năm 1988 trở đi, trước tình hình thế giới, trong nước có nhiều chuyển biến mới, nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Lào vững mạnh, cách mạng, chính quy, tiến lên hiện đại giữ vai trò trụ cột trong sự nghiệp bảo vệ đất nước và tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1991), Đảng Nhân dân cách mạng và Bộ Quốc phòng Lào đã chấn chỉnh, kiện toàn lực lượng thường trực theo hướng gọn nhẹ, có chất lượng cao, số lượng cần thiết, có cơ cấu, tổ chức cân đối, hợp lý, phù hợp với tình hình và khả năng của đất nước. Năm 1994, Bộ Quốc phòng Lào đồng loạt tổ chức thống nhất trong toàn quân cấp sư đoàn bộ binh. Năm 1995, Chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ký Sắc lệnh ban hành Luật Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Những quyết định quan trọng trên góp phần vào việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Lào thời kỳ mới.

Nhằm tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Quân đội nhân dân Lào trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Nhân dân cách mạng Lào (3/1996) xác định: “Để làm nòng cốt cho sự nghiệp quốc phòng toàn dân, phải chú trọng xây dựng và củng cố Quân đội nhân dân về mọi mặt, lấy chất lượng làm chính, xây dựng thành quân đội cách mạng, chính quy và từng bước hiện đại, đồng thời ra sức xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích, coi trọng hơn nữa việc xây dựng thế trận quốc phòng nhân dân ở cơ sở, gắn với việc phát triển nông thôn toàn diện, kết hợp chặt chẽ công tác quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội” [5].

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng VI và Nghị quyết các kỳ Đại hội Đảng tiếp sau, đến năm 2015, Quân đội nhân dân Lào được xây dựng và trưởng thành nhanh chóng, giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Lào xã hội chủ nghĩa. Trên từng bước đường xây dựng, cùng với quán triệt sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Lào luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, tạo lập thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc, cùng lực lượng an ninh bảo vệ vững chắc công cuộc xây dựng đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng Lào đề ra. Ngoài ra, Quân đội nhân dân Lào luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế với quân đội các nước, đặc biệt là Quân đội nhân dân Việt Nam vì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Với những thành tích to lớn đạt được, Quân đội nhân dân Lào 3 lần được tặng thưởng Huân chương Vàng Quốc gia, phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước Lào.

Trải qua 66 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Lào luôn kiên định vững vàng, tuyệt đối trung thành với với Đảng, với Tổ quốc và với nhân dân các bộ tộc Lào. Đặc biệt, trong bất luận hoàn cảnh nào, Quân đội nhân dân Lào cũng luôn chiến đấu dũng cảm, linh hoạt, sáng tạo, lập công xuất sắc, tạo nên truyền thống “bách chiến bách thắng”, qua đó hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử mà Đảng và nhân dân các bộ tộc Lào giao phó. Với truyền thống quý báu ấy, Quân đội nhân dân Lào chắc chắn sẽ giành được nhiều thành tích to lớn trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước Lào thời kỳ mới.

[1] Từ ngày 30/10/1949, các Lực lượng vũ trang Việt Nam hoạt động tại Lào mang danh nghĩa là “Quân tình nguyện”.

[2] Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào: Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, Nxb QĐND, Viêng Chăn. 1996, tr.106.

[3] Sau Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào, Quân đội Lào Ítxala được đổi tên thành Quân đội Pathét Lào; Bộ Quốc phòng được đổi tên thành Bộ chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang Pathét Lào.

[4] Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Lào: Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, Nxb QĐND, Viêng Chăn. 1996, tr.256.

[5] Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Nhân dân cách mạng Lào (3.1996). Lưu Bộ Quốc phòng Lào, tr.8.

File đính kèm:

Ths Lê Văn Phong, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ QUỐC PHÒNG NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Địa chỉ: Số 7, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
*Tel: +84-69.553215 * Email: info@mod.gov.vn
Website: bqp.vn, mod.gov.vn *
Tổng Biên tập: Đại tá Nguyễn Thanh Bình
Quyết định cho phép hoạt động: Số 3548/QÐ-BQP, ngày 25/9/2012
® Ghi rõ nguồn bqp.vn hoặc mod.gov.vn khi phát hành lại thông tin từ Cổng TTÐT BQP.