Web Content Viewer
Bộ Tổng Tham mưu đóng vai trò quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975
(Bqp.vn) - Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ, Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định chiến lược, tổ chức lực lượng và chỉ huy tác chiến trên toàn chiến trường. Là cơ quan tham mưu chiến lược cao nhất của Quân đội, Bộ Tổng Tham mưu đã góp phần quyết định vào thắng lợi của từng chiến dịch, trực tiếp xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp giữa quân sự, chính trị, ngoại giao, đóng vai trò quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Hoàng Thành Thăng Long - nơi làm việc của Bộ Tổng Tham mưu từ năm 1954 - 2004. (ảnh: Tư liệu)
Khẩn trương chấn chỉnh lực lượng, sẵn sàng đối phó với kẻ thù mới
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ đã mở ra giai đoạn phát triển mới cho cách mạng Việt Nam. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tiến vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; trong khi đó, Mỹ thay chân Pháp ở miền Nam, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc chưa hoàn thành, Bộ Tổng Tham mưu cùng cả nước bước vào thời kỳ mới: Bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam. Trong hai năm 1955 - 1956, Bộ Tổng Tham mưu cùng các tổng cục chỉ đạo toàn quân chấn chỉnh tổ chức, biên chế, trang bị theo hướng chính quy, hiện đại; triển khai nhiệm vụ phòng thủ bờ biển, bảo vệ miền Bắc. Đồng thời, nghiên cứu trình Tổng Quân ủy Đề án Kế hoạch xây dựng Quân đội 5 năm lần thứ nhất (1955 - 1960).
Thực hiện kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo điều chỉnh biên chế, trang bị thống nhất, chính quy cho các đơn vị; xây dựng cơ sở ban đầu cho Quân chủng Không quân và Hải quân; nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội thường trực và chỉ đạo xây dựng dân quân tự vệ - lực lượng hậu bị phát triển rộng khắp theo yêu cầu phòng thủ miền Bắc. Cùng với đó, Bộ Tổng Tham mưu thường xuyên theo dõi sát tình hình, kịp thời đề xuất và xử lý các vấn đề chiến lược; chủ động xây dựng kế hoạch lâu dài, kết hợp đấu tranh chính trị - pháp lý với áp lực quân sự, đánh bại mọi âm mưu phá hoại của địch, ổn định tình hình, triển khai lực lượng bảo vệ chủ quyền và xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.
Ở miền Nam, sau khi có Nghị quyết Trung ương 15 (01/1959), Bộ Tổng Tham mưu đã khẩn trương tổ chức và huấn luyện những đơn vị tập kết ra Bắc; nghiên cứu, tổ chức lực lượng tạo thế, tạo lực xây dựng lực lượng vũ trang; mở tuyến chi viện cho miền Nam như tuyến đường vận tải chiến lược đường bộ với việc thành lập Đoàn 559 (5/1959) và tuyến vận tải biển (7/1959); kiến nghị những phương thức thích hợp, kịp thời hỗ trợ cho cách mạng Lào, đặc biệt trong những thời điểm khó khăn nhất, tiến lên giành thắng lợi to lớn, đồng thời nghiên cứu, kiến nghị với Tổng Quân ủy phương châm kế hoạch xây dựng lực lượng, triển khai chấn chỉnh tổ chức biên chế, trang bị, xây dựng lực lượng vũ trang theo hướng chính quy, hiện đại.
Trong giai đoạn đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
Từ đầu năm 1961, do bị mất ưu thế về quân sự, đế quốc Mỹ đã phải thay đổi chiến lược toàn cầu phản cách mạng từ “trả đũa ồ ạt” (1954) sang “phản ứng linh hoạt” (1961). Đối với miền Nam Việt Nam, từ chiến lược “chiến tranh một phía”, Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với nội dung chủ yếu là: Càn quét, dồn dân vào ấp chiến lược; tập trung xây dựng quân đội và bộ máy cảnh sát; tăng cường cố vấn, viện trợ cho quân đội Sài Gòn các phương tiện chiến tranh hiện đại; đẩy mạnh các hoạt động phá hoại miền Bắc.
Đoàn cán bộ Cục Quân huấn, Cục Nhà trường (Bộ Tổng Tham mưu) tăng cường vào Nam chiến đấu đến Trung ương Cục. (ảnh: Tư liệu)
Quán triệt đường lối của Đảng, Bộ Tổng Tham mưu kịp thời tham mưu, đề xuất sát thực, giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng hiệu quả công cuộc bảo vệ miền Bắc, chuyển phương thức đấu tranh ở miền Nam và chỉ đạo tác chiến tại các chiến trường.
Đối với miền Bắc, Bộ Tổng Tham mưu xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các phương án tác chiến theo từng hướng chiến lược; triển khai xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, thế trận chiến tranh nhân dân và chuẩn bị động viên chiến tranh. Đồng thời, chủ động tham mưu, chỉ đạo đánh bại mọi hoạt động phá hoại của địch, giữ vững thế chủ động, không để bất ngờ khi chiến tranh lan ra miền Bắc. Nhờ chuẩn bị sẵn các phương án từ thời bình và dự đoán đúng tình hình, Bộ Tổng Tham mưu kịp thời tham mưu chuyển bộ đội sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Khi Mỹ đánh phá miền Bắc, ta chủ động điều chỉnh phương châm, phương thức tác chiến, chuyển từ lục quân sang chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ.
Đối với miền Nam, sau khi Bộ Chính trị giao nhiệm vụ cho Quân ủy Trung ương chỉ đạo hoạt động quân sự ở chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu đã khẩn trương nắm tình hình và dựa vào tư tưởng chỉ đạo chiến lược, phương châm chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương để chỉ thị cụ thể cho các chiến trường về phương châm, phương thức tác chiến, không cho địch phân tuyến, phân vùng; giữ vững thế cài răng lược, kết hợp “ba mũi”, “ba vùng”, “ba bám”, xây dựng bộ đội chủ lực ngày càng lớn mạnh. Ngoài ra, Bộ Tổng Tham mưu kiến nghị xây dựng kế hoạch chi viện cán bộ, lực lượng, vũ khí, đạn dược, chuẩn bị chiến trường và kiện toàn hệ thống chỉ huy quân sự ở miền Nam. Đồng thời, tăng cường cán bộ, thành lập Đảng ủy Bộ Tư lệnh Chiến trường (B2), các Khu ủy, Bộ Tư lệnh các Khu 5, 6, 7, 8, 9 và Quân khu Trị Thiên và Đảng ủy Mặt trận Tây Nguyên, hoàn chỉnh hệ thống cán bộ ở các cấp. Ngày 15/02/1961, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, đánh dấu bước phát triển mới của Lực lượng vũ trang nhân dân.
Trên chiến trường Lào, từ năm 1961, Bộ Tổng Tham mưu đã nghiên cứu đề ra phương thức phù hợp theo hướng tổ chức các lực lượng phối hợp thường xuyên với bạn để đánh địch, tổ chức phát động “chiến tranh nhân dân”, xây dựng lực lượng để tiến hành chiến tranh.
Trong chỉ đạo xây dựng lực lượng, Bộ Tổng Tham mưu đã giải quyết vấn đề trang bị kỹ thuật, hiện đại hóa Quân đội bằng viện trợ và sản xuất vũ khí trong nước, từng bước chuyển từ bộ binh mang vác thành Quân đội chính quy với Lục quân, Phòng không, Không quân, Hải quân, cùng Lực lượng Dân quân tự vệ và quân dự bị mạnh mẽ.
Thực hiện kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961 - 1965), tháng 6/1961, Bộ Tổng Tham mưu xây dựng biểu biên chế thời chiến cho một số đơn vị: Sư đoàn 325, Lữ đoàn 341, Trung đoàn 244 (Quân khu 4); Lữ đoàn 316, 335, Trung đoàn 148 (Quân khu Tây Bắc) trở thành những đơn vị mạnh, sẵn sàng điều vào chiến trường B (miền Nam) và chiến trường C (Lào). Tiếp đó, tháng 9/1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua đề án do Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị về xây dựng lực lượng vũ trang cho chiến trường miền Nam trong những năm 1961 - 1963. Theo đề án, bên cạnh việc phát triển lực lượng tại chỗ sẽ đưa từ miền Bắc vào miền Nam từ 3 đến 4 vạn quân chính quy; Sư đoàn 338 được Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp chỉ đạo thành “Đoàn huấn luyện đặc biệt” cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường miền Nam.
Trong giai đoạn đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ
Năm 1965, trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” đưa quân viễn chinh và quân đồng minh vào tham chiến trên chiến trường miền Nam, đồng thời sử dụng không quân và hải quân đánh phá ra miền Bắc. Quân đội nhân dân Việt Nam đứng trước đối tượng tác chiến mới là quân viễn chinh Mỹ được trang bị vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, sức cơ động cao. Bộ Tổng Tham mưu lúc này phải theo dõi, đánh giá đúng âm mưu và hành động của địch; bám sát thực tiễn chiến trường, giúp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra phương thức đấu tranh và giành thắng lợi ở miền Nam, đồng thời chỉ đạo đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.
Hội nghị Quân ủy Trung ương bàn về chiến trường miền Nam, thông qua Kế hoạch “Tăng cường chấn chỉnh lực lượng vũ trang nhân dân, tích cực chi viện miền Nam” do Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị, tháng 3/1965. (ảnh: Tư liệu)
Phân tích tình hình địch, ta, thấy ít khả năng Mỹ dùng quân bộ tiến công ra miền Bắc, Bộ Tổng Tham mưu đã xây dựng, đề đạt kế hoạch và quyết định mở Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị; đây là một chủ trương đúng đắn, thể hiện sự mưu lược tuyệt vời của cơ quan tham mưu chiến lược. Với việc mở mặt trận này, Bộ Tổng Tham mưu đã thực hiện được ý định kéo địch ra xa hậu phương, kéo địch vào chiến trường hiểm trở, hạn chế binh khí kỹ thuật hiện đại của chúng và thu hút, giam chân chủ lực địch. Bộ Tổng Tham mưu đã điều động, chỉ huy các lực lượng dự bị của Bộ luân phiên vào tác chiến nhằm tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ và quân đội Sài Gòn; thu hút lực lượng Mỹ, làm giảm một phần đánh phá ở miền Nam; phá kế hoạch triển khai quân Mỹ xuống đồng bằng sông Cửu Long; tạo điều kiện cho quân và dân miền Nam đánh bại các cuộc phản công chiến lược của Mỹ.
Đối với miền Bắc, Bộ Tổng Tham mưu đã kịp thời đưa ra các nhận định chính xác về tính chất, mục đích, thủ đoạn tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của Mỹ. Nghiên cứu giành và giữ quyền chủ động của ta cả ở trên không, trên biển. Xác định chiến tranh phá hoại miền Bắc là chiến lược bổ trợ cho “chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở miền Nam, nó chỉ kết thúc thắng lợi khi ta đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ trên chiến trường chính. Vì vậy, phải kiên quyết đánh bại chiến tranh phá hoại ở miền Bắc để bảo đảm chi viện ngày càng lớn cho miền Nam. Từ đó, Bộ Tổng Tham mưu đã sớm nghiên cứu, đề xuất tổ chức xây dựng phát triển nhanh các binh chủng hiện đại (tên lửa, không quân). Kịp thời đề ra phương châm, phương thức tác chiến thích hợp. Bộ Tổng Tham mưu đã nghiên cứu đề đạt tổ chức hội đồng (Ban) Phòng không nhân dân các cấp. Chỉ đạo công tác phòng không nhân dân chặt chẽ với các biện pháp cụ thể, thiết thực, có hiệu quả.
Trên chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu kịp thời cử những cán bộ dày dạn kinh nghiệm vào trực tiếp nghiên cứu tình hình, chỉ đạo, chỉ huy tác chiến. Do sâu sát chiến trường, nghiên cứu, đánh giá đúng đối tượng tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu đã kịp thời đề ra 6 phương thức tác chiến, chỉ đạo các chiến trường thống nhất về đánh giá Mỹ, chỉ đạo đánh những trận phủ đầu giành thắng lợi với tinh thần “dám đánh, biết đánh và quyết thắng”, để tìm ra cách đánh có hiệu quả nhất. Quân và dân ta đã giữ vững thế chủ động tiến công, huy động sức mạnh tổng hợp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967; đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét của đế quốc Mỹ và đồng minh như: Cuộc hành quân At-tơn-bo-rơ (14/9 - 25/11/1966), Xi-đa Phôn (8 - 26/1/1967), Gian-xơn Xi-ti (22/2 - 15/4/1967). Đồng thời, Bộ Tổng Tham mưu còn trực tiếp chuẩn bị kế hoạch cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 bảo đảm bí mật, bất ngờ, giành thắng lợi to lớn ở 4 thành phố, 37 thị xã, hơn 100 thị trấn miền Nam. Cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân năm 1968 đã đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang ngồi vào bàn đàm phán, chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, đồng thời tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đối với chiến trường Lào, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo quân tình nguyện và các đoàn chuyên gia phối hợp với bạn giành và giữ quyền chủ động ở chiến trường Lào, đánh bại các cuộc tấn của công địch, phát triển thế tấn công vào vùng sau lưng địch trong giai đoạn 1965 - 1966, củng cố và mở rộng vùng giải phóng của cách mạng Lào.
Về xây dựng lực lượng, Bộ Tổng Tham mưu đã tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang hai miền Nam - Bắc phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Miền Bắc có Quân đội mạnh với đầy đủ quân, binh chủng hiện đại, miền Nam có lực lượng vũ trang mạnh với ba thứ quân được tăng cường một số binh chủng. Trang bị cả hiện đại và thô sơ, cải tiến, sáng tạo trong sử dụng phù hợp với chiến trường nên đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thứ quân trong thế trận chiến tranh nhân dân ở cả hai miền Nam - Bắc.
Trong giai đoạn đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ ở miền Bắc
Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, giao gánh nặng chiến tranh cho quân đội Sài Gòn. Mỹ cũng tăng cường xây dựng quân đội Sài Gòn, tổ chức các phản công quyết liệt ở miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc, mở rộng chiến tranh ra Đông Dương.
Giữa năm 1969, Quân ủy Trung ương thông qua đề án điều chỉnh bố trí lực lượng vũ trang để đảm bảo hiệu quả chiến đấu ở miền Nam. Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo tăng quân số trực tiếp chiến đấu ở miền Bắc, kiện toàn sư đoàn bộ binh và binh chủng chủ lực. Tháng 2/1970, Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ quan trọng là xây dựng binh đoàn chủ lực mạnh cho chiến trường Đông Dương, củng cố lực lượng chủ lực miền Nam và nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng dự bị chiến lược miền Bắc. Theo phương hướng xây dựng đó, Bộ Tổng Tham mưu phối hợp với các Tổng cục củng cố, nâng cao sức mạnh chiến đấu và khả năng cơ động của sư đoàn bộ binh, các đơn vị pháo binh, thiết giáp, đặc công, công binh, thông tin, đồng thời tăng cường lực lượng cho Đoàn 559 và xây dựng đường ống dẫn xăng dầu vào chiến trường.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng họp bàn với Bộ Tư lệnh Miền, Bộ Tư lệnh 559 về Kế hoạch vận chuyển chi viện cho miền Nam, cho Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào ngay tại cánh rừng trên đường Trường Sơn. (ảnh: Tư liệu)
Trên chiến trường miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu thực hiện tốt chức năng làm tham mưu với Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh đánh giá đúng tình hình địch; xây dựng kế hoạch tác chiến, chuẩn bị chiến trường, tổ chức chỉ huy hiệp đồng và bảo đảm các mặt công tác. Cùng với đó, Bộ Tổng Tham mưu trực tiếp chỉ huy các chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược như Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (30/1 - 23/3/1971); đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1/1971” của Mỹ và quân đội Sài Gòn ở Đông Bắc Cam-pu-chia; Chiến dịch tiến công Trị - Thiên năm 1972, Chiến dịch Bắc Tây Nguyên (30/3 - 05/6/1972)...
Để bảo vệ miền Bắc, Bộ Tổng Tham mưu chủ động nghiên cứu tình hình, dự báo âm mưu của địch và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Tháng 7/1972, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Phòng không - Không quân chuẩn bị “Phương án đánh máy bay B-52”; đến tháng 9/1972 đã hoàn chỉnh kế hoạch “Chiến dịch phòng không đánh bại địch tập kích bằng máy bay B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng”. Tiếp đó, tháng 10/1972, Bộ Tổng Tham mưu đã triển khai xong lực lượng bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo, quân và dân miền Bắc đã đập tan cuộc tập kích đường không chiến lược 12 ngày đêm (18 - 29/12/1972) của đế quốc Mỹ vào Thủ đô Hà Nội và Hải Phòng.
Ở Lào và Cam-pu-chia, Bộ Tổng Tham mưu đã lập kế hoạch và tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp chỉ đạo các lực lượng quân tình nguyện, chuyên gia quân sự phối hợp với bạn đập tan kế hoạch tiến công lấn chiếm ở Lào. Các chiến dịch tiến công và phòng ngự ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, phản công cao nguyên Bôlôven - Hạ Lào đã giành thắng lợi. Bộ Tổng Tham mưu cũng xây dựng kế hoạch chống tiến công sang Cam-pu-chia, hỗ trợ cách mạng Cam-pu-chia phát triển lực lượng vũ trang, bảo vệ vùng giải phóng.
Đối với công tác tổ chức xây dựng lực lượng trong giai đoạn này, Bộ Tổng Tham mưu tập trung chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân phù hợp với thực tế từng địa phương, gắn với bảo đảm hậu cần tại chỗ và tiếp tế từ hậu phương; đến cuối giai đoạn, lực lượng ta ở miền Nam phát triển mạnh, toàn diện hơn.
Về trang bị vũ khí, Bộ Tổng Tham mưu lập kế hoạch tận dụng viện trợ quân sự, trang bị cho miền Bắc và đưa khối lượng lớn vũ khí, phương tiện vào chiến trường miền Nam. Phối hợp với Tổng cục Hậu cần, Đoàn 559 tổ chức vận chuyển quy mô lớn, bổ sung lực lượng và vật chất cho các chiến trường Lào và Cam-pu-chia trong điều kiện địch đánh phá ác liệt.
Với thắng lợi trong trận “Điện Biên Phủ trên không” và cuộc Tổng tiến công năm 1972, quân và dân ta làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mỹ ký Hiệp định Paris (27/01/1973). Bộ Tổng Tham mưu cùng toàn quân góp phần thực hiện thắng lợi Chỉ thị “đánh cho Mỹ cút”, tạo tiền đề giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đẩy mạnh tác chiến, tạo thế, tạo lực, chớp thời cơ chiến lược, cùng toàn dân tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Sau Hiệp định Paris, Mỹ tiếp tục âm mưu duy trì miền Nam trong quỹ đạo thực dân mới, tăng viện trợ và chỉ đạo quân Sài Gòn lấn chiếm vùng giải phóng. Tháng 5/1973, Bộ Tổng Tham mưu đề xuất với Quân ủy Trung ương các nhiệm vụ trước mắt: Đánh địch lấn chiếm, giữ vùng giải phóng, bảo vệ hành lang chiến lược…
Sau Hội nghị Trung ương 21 (7/1973), Bộ Tổng Tham mưu được giao xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Rút kinh nghiệm các cuộc tiến công trước, Bộ Tổng Tham mưu phối hợp các cơ quan chuẩn bị chiến trường toàn diện, củng cố hậu cần, thông tin, bảo vệ miền Bắc và xây dựng lực lượng lên 1.240.000 quân, tăng cường trang bị cho các đơn vị chủ lực. Theo đó, Bộ Tổng Tham mưu đã chủ động xây dựng kế hoạch chiến lược sát thực tiễn, chính xác, bí mật, tạo thế và lực trên toàn chiến trường Đông Dương. Trong chỉ đạo tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu đã quán triệt tư tưởng bạo lực cách mạng, chiến lược tiến công toàn dân, toàn diện, đẩy lùi địch từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn với tinh thần sáng tạo, linh hoạt, kiên quyết.
Ngay sau khi Mỹ rút quân (29/3/1973), Bộ Tổng Tham mưu tích cực chuẩn bị cho cuộc quyết chiến chiến lược bằng cách tạo lực và tạo thế. Về tạo lực, Bộ Tổng Tham mưu phối hợp xây dựng kế hoạch hậu cần, hoàn chỉnh mạng đường chiến lược, xây dựng cơ sở hậu cần tại chỗ, tuyển quân, phát triển lực lượng vũ trang và thành lập các quân đoàn chủ lực. Về tạo thế, từ năm 1974, ta liên tiếp giành thắng lợi, đẩy lùi các cuộc hành quân của địch, mở rộng tiến công từ Trị Thiên đến Nam Bộ. Chiến thắng Phước Long (6/1/1975) là đòn trinh sát có ý nghĩa chiến lược, cho thấy sự suy yếu của chính quyền Sài Gòn và việc Mỹ không còn khả năng can thiệp trở lại bằng quân sự.
Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng nghe báo cáo tình hình quân và dân tham gia Chiến dịch Tây Nguyên và thông qua quyết tâm chiến đấu của Sư đoàn Bộ binh 10. (ảnh: Tư liệu)
Nhận định, đánh giá đúng tình hình, Bộ Tổng Tham mưu đã kịp thời tham mưu với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng điều chỉnh quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Trên cơ sở thế trận chiến tranh nhân dân phát triển cao, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo thực hiện mưu kế chiến lược “căng địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt”, lựa chọn Tây Nguyên là hướng chủ yếu, Buôn Ma Thuột là điểm quyết chiến then chốt. Chiến dịch Tây Nguyên thành công vang dội nhờ sự chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo trong việc tạo lập thế trận, nghi binh, chia cắt và tiêu diệt lực lượng địch, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta. Sau đó, Bộ Tổng Tham mưu tiếp tục chỉ huy Chiến dịch Trị Thiên - Huế và Chiến dịch Đà Nẵng, giải phóng Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng. Trên đà thắng lợi, Bộ Tổng Tham mưu đã kịp thời tham mưu chuyển từ tiến công chiến lược sang Tổng tiến công và nổi dậy, quyết định giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975, rồi quyết định giải phóng trước mùa mưa, kết hợp chặt chẽ với các chiến dịch ở Đồng bằng sông Cửu Long, chớp thời cơ, chỉ đạo tiến hành tiến công giải phóng Trường Sa giành thắng lợi trọn vẹn.
Những tham mưu, đề xuất chiến lược thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ và năng lực chỉ huy của cơ quan tham mưu chiến lược, kết hợp tinh thần “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” của Tổng hành dinh và ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của toàn dân, toàn quân đã tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa đến thắng lợi cuối cùng, kết thúc chiến tranh.
Những chiến công của Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả đóng góp của tập thể lãnh đạo, cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là các đồng chí tướng lĩnh, như: Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng. Đồng chí Lê Trọng Tấn giữ vai trò quan trọng tại chiến trường miền Nam, trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch lớn, như: Chiến dịch Đồng Xoài, Bàu Bàng - Dầu Tiếng, Gian-xơn Xi-ti… Đồng chí Hoàng Văn Thái, trên cương vị Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền, đã cùng Trung ương Cục chỉ đạo tác chiến, tham gia Tổng tiến công Mậu Thân 1968, đánh bại nhiều cuộc hành quân lớn của địch và chỉ đạo mở Chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972.
Sau kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Văn Tiến Dũng trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng đã lãnh đạo Bộ Tổng Tham mưu thực hiện hiệu quả vai trò tham mưu chiến lược, xây dựng Quân đội chính quy, hiện đại và tổ chức lực lượng bảo vệ miền Bắc. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí trực tiếp chỉ đạo tác chiến trên cả nước, góp phần quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch lớn, như: Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), Trị - Thiên (1972), Tây Nguyên (1975) và đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trải qua 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta đã thực hiện đúng tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Bộ Tổng Tham mưu đã không ngừng trưởng thành về tham mưu chiến lược với Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đề ra những quyết sách đúng đắn, đồng thời chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội nhân dân lần lượt đánh bại từng chiến lược của đế quốc Mỹ, góp phần xuất sắc vào thắng lợi chung của dân tộc; xứng đáng là cơ quan tham mưu chiến lược về quân sự, quốc phòng của cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ một cơ quan tham mưu chiến lược của lục quân trong kháng chiến chống Pháp, Bộ Tổng Tham mưu đã trở thành cơ quan tham mưu chiến lược của một Quân đội có đầy đủ các quân, binh chủng trong kháng chiến chống Mỹ. Đây là cơ sở để Bộ Tổng Tham mưu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sau khi đất nước thống nhất.
File đính kèm:
Nội dung cùng chuyên mục
- Ra mắt Báo Quân đội nhân dân điện tử tiếng Nga
- Hội nghị kiểm tra Dự án rà phá bom mìn, vật nổ phục vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ địa bàn tỉnh Tuyên Quang
- Bộ Quốc Phòng gặp mặt Đoàn đại biểu người có công với cách mạng tỉnh Đồng Tháp
- Đại tướng Phan Văn Giang gửi thư chúc mừng 80 năm Ngày truyền thống Lữ đoàn Pháo binh 45
- Đại tướng Phan Văn Giang gửi thư chúc mừng 80 năm Ngày truyền thống Lực lượng vũ trang tỉnh Long An (nay thuộc Tây Ninh)