Web Content Viewer
Chiến thắng Xuân Lộc - Mở “cánh cửa thép” tiến vào giải phóng Sài Gòn
(Bqp.vn) - Cách đây 40 năm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng, kết thúc 21 năm ròng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Bắc - Nam sum họp một nhà. Trên con đường đi đến chiến thắng vẻ vang ấy, thắng lợi mở “cánh cửa thép” Xuân Lộc, tạo điều kiện thuận lợi cho cánh quân hướng Đông tiến vào giải phóng Sài Gòn - Gia Định là một điểm nhấn quan trọng, thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng.
Chỉ huy Trung đoàn 3 (Sư đoàn 304) bàn phương án tác chiến trong Chiến dịch Xuân Lộc. (ảnh tư liệu)
Cuối tháng 3/1975, sau gần một tháng tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân ta ở miền Nam đã tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 của Quân đội Sài Gòn, đồng thời xóa sổ Quân khu 1 và Quân khu 2 của chúng, góp phần giải phóng toàn bộ 12 tỉnh từ Quảng Trị đến Khánh Hòa và toàn bộ Tây Nguyên. Để bảo vệ những vùng đất còn lại ở phía Nam, địch gấp rút tập trung binh lực, tổ chức xây dựng tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh; trong đó, thị xã Xuân Lộc, cách Sài Gòn 60 km về phía Đông Bắc là một trọng điểm - “cánh cửa thép” bảo vệ nội đô Sài Gòn - Gia Định. Tại đây, địch bố trí một lực lượng mạnh, bao gồm Sư đoàn 18, một số tiểu đoàn bảo an và cảnh sát phòng ngự trong công sự kiên cố. Báo chí phương Tây lúc bấy giờ xem Xuân Lộc là ốc xoáy cuối cùng quyết định số phận Sài Gòn. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu mệnh danh Xuân Lộc là phòng tuyến thép. Tướng Ph-rê-đê-rích Uây-en (Frederick C. Weyand), Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ cho rằng: mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn; còn tướng Lê Minh Đảo, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 18 lớn tiếng tuyên bố: “Tôi thề giữ vững Xuân Lộc. Bất chấp cộng sản tập trung bao nhiêu sư đoàn, tôi cũng đánh gục họ” [1].
Về phía ta, Xuân Lộc có tầm quan trọng đặc biệt, ảnh hưởng lớn tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, trực tiếp nhất là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng… một mặt cần cơ động nhanh chóng, thần tốc, mặt khác, sử dụng ngay lực lượng hiện có để kịp thời hành động, không chờ đợi tập trung đầy đủ lực lượng mới làm” [2] của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền quyết định giao cho Quân đoàn 4 mở chiến dịch tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ Xuân Lộc, tiêu diệt Sư đoàn 18 ở vòng ngoài, cắt giao thông, cô lập Sài Gòn, tạo thế có lợi mở đường cho các lực lượng của Bộ, Miền và lực lượng vũ trang địa phương trên hướng Đông nhanh chóng tiến vào giải phóng Sài Gòn - Gia Định.
Sau khi bàn bạc và đi đến thống nhất, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định chọn phương án tiến công trực diện vào đội hình phòng ngự của Sư đoàn 18 đóng tại thị xã Xuân Lộc. Thực hiện kế hoạch, sáng ngày 9/4/1975, ta đồng loạt tiến công địch trên các hướng, mở màn Chiến dịch Xuân Lộc. Mặc dù bị địch phản kích dữ dội nhưng ngay trong ngày đầu, các lực lượng của ta đã làm chủ 1/2 thị xã, toàn bộ khu hành chính tiểu khu, đưa được 3 tiểu đoàn vào bên trong, thực hiện chia cắt đường 1 khu vực ngã ba Dầu Giây - đèo Mẹ Bồng Con.
Những ngày sau đó, cuộc chiến đấu diễn ra tại Xuân Lộc ngày càng ác liệt, tổn thất cả ta và địch tăng lên. Quyết giữ Xuân Lộc, ngày 12/4/2015, địch tăng cường thêm Lữ đoàn 1 dù, Lữ đoàn 3 thiết giáp, Chiến đoàn 3 (Sư đoàn 5), Liên đoàn biệt động quân, các trung đoàn thiết giáp số 315, 318, 320; toàn bộ hỏa lực pháo binh của Quân đoàn 3 và của không quân từ hai sân bay Biên Hòa và Tân Sơn Nhất trực tiếp tham gia chi viện các các mũi phản kích; thậm chí địch còn sử dụng cả loại bom cháy CBU mà thế giới cấm sử dụng để đối phó với ta. Như vậy, lực lượng địch ở Xuân Lộc - Long Khánh đã chiếm đến 50% bộ binh và 60% pháo binh, hầu hết số lượng xe tăng, xe thiết giáp của Quân đoàn 3 và lực lượng tổng dự bị chiến lược (tương đương 1 sư đoàn) của Quân đội Sài Gòn.
Sự biến động lớn về tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch tại Xuân Lộc đã khiến chiến sự tại đây trở nên hết sức căng thẳng, quyết liệt. Qua ba ngày chiến đấu, mặc dù ta đã chiếm được một số mục tiêu, diệt một bộ phận sinh lực địch và giữ được một số địa bàn quan trọng nhưng ta vẫn chưa tiêu diệt gọn được một tiểu đoàn nào của địch, hơn nữa bộ đội ta bị thương vong nhiều, buộc phải có phương án thay thế. Do đó, ngày 13/4/1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định ngừng tiến công, chuyển từ phương án tiến công trực diện sang đánh bao vây, chia cắt, mỗi sư đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn kiềm chế, nghi binh địch, còn đại bộ phận lực lượng lui về tuyến sau để củng cố, cơ động theo phương án mới.
Trong khi ta chuyển thế trận, rút các đơn vị ra khỏi thị xã, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên truyền rùm beng về “sự thất bại của Việt Cộng” ở Xuân Lộc. Tuy nhiên, đến ngày 15/4/1975, các đơn vị ta được pháo binh chi viện tiến công giải phóng hoàn toàn Chi khu Gia Kiệm, ngã ba Dầu Giây, cắt đứt quốc lộ 1 (đoạn Xuân Lộc - Bàu Cá) và quốc lộ 20 (đoạn Túc Trưng - ngã ba Dầu Giây), bao vây, cô lập thị xã Xuân Lộc. Để cứu vãn tình hình, trong hai ngày (16 và 17/4), Bộ Chỉ huy Quân đoàn 3, Quân đội Việt Nam Cộng hòa tức tốc điều Lữ đoàn 3 thiết giáp, Chiến đoàn 8 (Sư đoàn 5), với hơn 100 khẩu pháo cỡ lớn ở các căn cứ: Nước Trong, Hốc Bà Thức, Long Bình, Đại An và 125 lần chiếc máy bay chiến đấu chi viện mỗi ngày, thực hiện phản kích hòng chiếm lại Dầu Giây. Các trận đánh diễn ra ác liệt ở Hưng Nghĩa, điểm cao 122, lực lượng địch bị đẩy lùi về Bàu Cá.
Bộ đội Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) tiến công giải phóng thị xã Xuân Lộc, đập tan tuyến phòng thủ mạnh nhất phía Đông Sài Gòn, ngày 21/4/1975. (ảnh tư liệu)
Cùng thời gian này, Cánh quân Duyên hải đã đập tan “lá chắn thép” Phan Rang, giải phóng Phan Thiết, Hàm Tân; đồng thời, tiến vào khu vực Rừng Lá, uy hiếp trực tiếp Xuân Lộc. Trong khi đó, tại khu vực Xuân Lộc, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 tiếp tục tiến công, đánh bại các chiến đoàn 43 và 48, tiêu hao nặng Lữ đoàn 1 dù của địch. Phát huy thắng lợi của các đơn vị chủ lực, bộ đội địa phương và du kích nhanh chóng tiêu diệt, bức hàng, bức rút hệ thống đồn bốt địch ở dọc các trục giao thông và vùng ven thị xã.
Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng hòa ra lệnh rút quân khỏi Xuân Lộc để bảo toàn lực lượng. Để khỏi bị truy diệt, ngày 20/4/1975, địch huy động hàng chục khẩu pháo đặt ở các căn cứ Nước Trong, Trảng Bom bắn hàng trăm quả đạn vào trận địa Quân đoàn 4 đang chốt giữ để nghi binh thu hút sự chú ý của ta; đồng thời, lợi dụng trời mưa lớn, toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy về Bà Rịa - Vũng Tàu theo hướng Quốc lộ 2. Mặc dù Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã triển khai phương án truy kích địch nhưng ta cũng chỉ kịp chặn đánh được bộ phận đi sau cùng và bắt sống tỉnh trưởng Long Khánh.
Ngày 21/4/1975, Chiến dịch tiến công Xuân Lộc kết thúc thắng lợi, thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh được hoàn toàn giải phóng. Ngay sau khi “cánh cửa thép” Xuân Lộc tan rã, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố từ chức và hai ngày sau đó thì trốn chạy khỏi Sài Gòn. Bên kia bờ đại dương, ngày 23/4/1975, Tổng thống Mỹ Gerald Ford tuyên bố “Cuộc chiến tại Việt Nam đã chấm dứt đối với người Mỹ” [3]. Mặt trận hướng Đông được khai thông, các cánh quân giải phóng rầm rập tiến về Sài Gòn, xông thẳng vào sào huyệt cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa, góp phần vào thắng lợi vẻ vang của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Từ chiến thắng Xuân Lộc, chúng ta rút ra nhiều bài học giá trị; đồng thời khẳng định việc mở chiến dịch tiến công Xuân Lộc là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết trong thời khắc lịch sử rất quan trọng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Thắng lợi của chiến dịch chẳng những đập tan “cánh cửa thép” bảo vệ cửa ngõ phía Đông Sài Gòn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà còn “làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch xung quanh Sài Gòn, làm cho tinh thần quân ngụy càng thêm suy sụp” [4]. Hơn nữa, thắng lợi này đã tạo ra một địa bàn hội quân thuận lợi, góp phần nâng cao sức mạnh và ý chí quyết chiến, quyết thắng cho cán bộ, chiến sỹ Cánh quân hướng Đông - một trong năm binh đoàn chủ lực cơ động trong đội hình chiến dịch mang tên Bác Hồ kính yêu tiến vào giải phóng Sài Gòn - Gia Định, kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
[1] - Dương Hảo, Một chương bi thảm, Nxb QĐND, Hà Nội, 1980, tr. 228.
[2] - Điện của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày 1/4/1975 gửi các đồng chí chỉ huy ở Mặt trận Sài Gòn.
[3] - Theo tin Viễn ấn ngoại quốc, ngày 25/4/1975, phòng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, Tài liệu lưu Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Hồ sơ 3791.
[4] - Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Hồi ức), Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 291.
File đính kèm:
Nội dung cùng chuyên mục
- Chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương trong Chiến dịch Tây Nguyên
- Tiếp tục làm sâu sắc hơn giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm của Chiến thắng Bình Giã
- Hội thảo khoa học cấp Bộ Quốc phòng “60 năm chiến thắng Bình Giã - Giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm”
- Chiến thắng Bình Giã và bài học đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội hiện nay
- Thông điệp về tinh thần yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc